bình luận về nguyễn trãi

Trường THPT Nguyễn Trãi là một địa điểm được đánh giá cao trong lĩnh vực Trường THPT với hơn 75 review với tổng số điểm là 4.6/5 sao. Các bình luận tốt chiếm tới 93%, đây là một địa chỉ uy tín mà các bậc phụ huynh có thể yên tâm để gửi gắm tương lai của con mình. Về thơ, phải nói đến ức Trai thi tậpva Quốc âm thi tập. Trong thời kỳ “bình Ngô",ngòi bút của Nguyễn Trãi đã có sức mạnh như một mũi tiến công sắc bén. Những bài văn viết trong thòi kì này, đã được người đời sau gộp lại trong Quân trung từmệnh tắp. Những lời Phân Tích Bài Thơ Bình Ngô Đại Cáo Chi Tiết 2 Đoạn Đầu; Wonder Park Nha Trang – Oanh tạc khu vui chơi giải trí cho kỳ nghỉ lý tưởng; Phân Tích Cây Xà Nu Chi Tiết Và Đầy Đủ Các Lớp Nghĩa Nhất; Phân Tích Cây Xà Nu Chi Tiết Và Đầy Đủ Các Lớp Nghĩa Nhất Nghị luận văn học: Phân tích luận đề chính nghĩa trong Bình Ngô Đại Cáo. Nguyễn Trãi là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông vẫn được lưu truyền cho đến tận ngày nay trong đó không thể không kể đến "Bình Ngô đại Với Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi xuất phát từ hoàn cảnh thực tế đất nước, từ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, đã bổ sung, mở rộng, thể hiện bước tiến dài trong nhận thức về quốc gia: bên cạnh hai nhân tố cơ bản là ranh giới địa lí Mein Mann Sucht Ständig Kontakt Zu Anderen Frauen. Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ năm, 4/5/2017, 1800 GMT+7 Là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, một trong 14 anh hùng dân tộc, nhưng Nguyễn Trãi từng phải chịu án oan thảm khốc và về sau được vua Lê Thánh Tông khôi phục danh dự. Tranh vẽ chân dung Nguyễn Trãi. Câu 1 Nguyễn Trãi làm quan dưới triều đại nào? a. Hậu Lê b. Hồ, Hậu Lê c. Trần, Hồ, Hậu Lê Thanh Tâm Trở lại Giáo dụcTrở lại Giáo dục Chia sẻ Dàn ý + Văn mẫu Thuyết minh tác giả Nguyễn TrãiVăn mẫu lớp 10 Thuyết minh về nhà thơ Nguyễn Trãi vừa được sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới minh Nguyễn TrãiDàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi - Mẫu 1Dàn ý thuyết minh Nguyễn Trãi - Mẫu 2Thuyết minh về Nguyễn Trãi - Mẫu 1Thuyết minh tác giả Nguyễn Trãi - Mẫu 2Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi - Mẫu 3Thuyết minh về cuộc đời Nguyễn Trãi - Mẫu 4Thuyết minh về cuộc đời của Nguyễn Trãi - Mẫu 5I. Dàn ý thuyết minh về tác giả Nguyễn TrãiMẫu số 11. Mở bàiGiới thiệu tác giả Nguyễn ý học sinh lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân Thân bàia. Cuộc đời tác giả Nguyễn TrãiNguyễn Trãi 1380 – 19 tháng 9 năm 1442, hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự thống trị của nhà Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn, đề ra chiến lược cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh. Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập nội hành khiển và Thừa 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Sự nghiệp làm quan của Nguyễn Trãi1400 - 1407 Làm quan cho nhà Hồ1407 - 1418 Mười năm phiêu dạt1418 Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn1427 Nguyễn Trãi làm Triều liệt Đại phu Nhập nội Hành khiển Lại bộ Thượng thư1928 Nguyễn Trãi làm Quan phục hầu1434 Nguyễn Trãi giữ chức Hành khiển1438 Về ở Côn Sơn1439 Lê Thái Tông mời ông ra làm quan1442 Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân 3 học. Sự nghiệp văn chươngNguyễn Trãi để lại cho đời nhiều tác phẩm thi ca, chính luận đặc sắc song có một số tác phẩm bị thiêu hủy sau vụ án Lệ Chi ViênCác tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi còn lưu giữ Ức Trai Thi Tập, Quốc Âm Thi Tập, Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập, Lam Sơn thực lục, cùng các bài chiếu, cáo khác hay bài về địa lí “Dư Địa Chí”,…Tư tưởng chủ đạo trong các thi phẩm, bài chính luận là tư tưởng nhân nghĩa, mệnh trời, tư tưởng nhân dân, sống theo tư tưởng đạo Nho nhưng không gò bó, câu nệ tiểu tiết mà vô cùng khoáng đạt, rộng thuật thơ của Nguyễn Trãi có ngôn từ giản dị, gần gũi, hình ảnh thơ giàu tính ước 1980, Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế Kết bàiKhái quát lại nhà thơ Nguyễn Trãi đồng thời rút ra bài học. Mẫu số 2I. Mở bàiNguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc được cả thế giới biết nhà quân sự nổi tiếng có công sáng lập ra nhà Hậu Lê và cũng là nhà thơ đời ông có nhiều điều uất ức và bi thảm nhưng ông để lại nhiều giá trị văn học cho hậu Thân bài1. Cuộc đời & sự nghiệpNguyễn Trãi 1380 - 1442, hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Trãi là con của gia đình có truyền thống yêu nước, văn năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, cả cha và con đều làm 1407, nhà Hồ khởi nghĩa thất bại, giặc Minh chiếm nước ta, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, còn ông Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống những năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh, đó cũng là thời gian mà ông viết “Bình Ngô đại cáo”.Chỉ sau thời gian ngắn, triều đình lục đục, gian lận lộng hành, ông xin về ở mời ông ra phụ giúp việc nước nhưng vào năm 1442 ông dính vào vụ án Lệ chi Viên nổi tiếng, gia đình 3 đời bị xử án Lệ Chi Viên vụ án oan trong lịch sử và được vua Lê Thánh Tông minh oan vào năm Trãi được minh oan và trong sạch để lại tiếng thơm muôn Trãi chính thức trở thành danh nhân văn hóa thế giới vào năm Đóng góp vào văn họcKhông chỉ là nhà quân sự, Nguyễn Trãi có rất nhiều những đóng góp quan trọng vào văn học đương thời và có giá trị đến hiện Trãi nhiều tác phẩm nổi tiếng văn chính luận, thơ trữ tình. Các tác phẩm của ông được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.+ Ông là nhà thơ trữ tình xuất sắc với các tập thơ “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”. Qua đó đã khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại với lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân lúc nào cũng thiết tha, mãnh liệt; phẩm chất và ý chí ngời trữ tình Nguyễn Trãi có đóng góp lớn cho văn học dân tộc từ sự phát triển của ngôn ngữ chữ Nôm, Việt hóa thể thơ Đường cà sáng tạo ra thể thất ngôn xen lục ngôn. Thơ Nguyễn Trãi giàu hình ảnh ước lệ, nhưng cũng mang hơi thở cuộc sống, vừa có khuynh hướng trang nhã vừa có xu hướng bình dị.+ Ông là nhà chính luận nổi tiếng “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”, các thể loại chiếu… Về tư tưởng chủ đạo xuyên suốt những văn bản chính luận của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Còn trong nghệ thuật, văn chính luận của ông đạt trình độ mẫu mực trong việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng biện pháp thích hợp; kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.→ Nguyễn Trãi là một thiên tài Văn học của dân tộc, thơ văn Nguyễn Trãi vừa kết tinh truyền thống Văn học Lí – Trần, vừa mở đường cho cả một giai đoạn phát triển mới. Các tác phẩm của ông đều thể hiện lòng yêu nước, thương dân, lí tưởng nhân nghĩa. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị và gần gũi với thực Kết bàiNguyễn Trãi không chỉ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp “trí quân trạch dân” mà còn đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học dân tộc. Ông xứng đáng là người hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đời của ông để lại nhiều đau thương, bị thảm nhưng tiếng thơm muôn đời và sự kính phục của thế hệ Văn mẫu thuyết minh về Nguyễn TrãiMẫu số 1Nguyễn Trãi 1380 - 1442 - nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất của Việt Nam, hiệu là Ức Trai; Người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang nay là huyện Chí Linh - Hải Dương.Khi Nguyễn Trãi lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông phải sống với ông ngoại ở Côn Sơn Chí Linh - Hải Dương. Nhưng đến 1390 khi ông 10 tuổi thì ông ngoại cũng mất. Nguyễn Trãi về sống với cha ở Nhị Khê Thường Tín - Hà Nội. Tại đây ông được cha dạy dỗ rèn cặp. Năm 1400, Hồ Quý Li mở khoa thi đầu tiên, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Ông được Hồ Quý Li cử giữ chức Ngự sử đài chánh trưởng. Vì sớm nhận ra ở Nguyễn Trãi một nhân cách đặc biệt, dám nói, dám làm, một tài năng xuất chúng trong sự nghiệp cải cách đất nước nên Hồ Quý Li đã tin tưởng ở Nguyễn Trãi rất nhiều. Nhưng tiếc rằng, Nguyễn Trãi chưa có dịp bộc lộ tài năng thì giặc Minh xâm lược nước ta. Năm 1407, nhà Hồ bị giặc Minh đánh bại. Cha con Hồ Quý Li và nhiều bề tôi của nhà Hồ trong đó có phụ thân của Nguyễn Trãi bị bắt về Trung Quốc. Nghe tin, ông vội vàng cùng em trai đi theo chăm sóc cha. Sau khi nghe lời khuyên của cha, Nguyễn Trãi trở về "tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu".Khi trở về ông bị tướng giặc bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan. Mặc dù quân giặc dùng nhiều mưu mua chuộc nhưng ông nhất quyết không ra làm quan cho giặc. Thời gian ở thành Đông Quan từ 1406 - 1414 là khoảng thời gian Nguyễn Trãi tìm tòi, nghiên cứu, suy nghĩa sách lược đánh quân Minh. Sau khi trốn khỏi thành Đông Quan, Nguyễn Trãi tìm đến với Lê Lợi - vị chủ soái phong trào Tây Sơn và dâng Bình Ngô sách. Được tin dùng Nguyễn Trãi trở thành một trợ thủ đắc lực, tin cậy luôn sát cánh cùng Lê cuộc kháng chiến chống quân Minh với cương vị Tuyên Phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, ông đã cùng Lê Lợi xây dựng một đường lối quân sự, chính trị táo bạo và đúng đắn, giúp quân ta dành hết thắng lợi từ trận này sang trận khác. Có thể nói trong 10 năm kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi cùng với nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ, thiếu thốn những đây cũng là giai đoạn rực rỡ, huy hoàng nhất trong cuộc đời ông. Tài năng của ông được đánh giá đúng, khí phách ngang tàng của ông có chốn để vẫy vùng thỏa cuộc kháng chiến thắng lợi đầy oanh liệt, triều đình non trẻ nhà Lê vừa được thành lập đã nhanh chóng rơi vào khủng hoảng, mâu thuẫn trong nội bộ tầng lớp thống trị phát sinh. Do tầm nhìn hạn hẹp, do quá lo lắng cho quyền lợi của hoàng gia, Lê Lợi đã ngăn cản Nguyễn Trãi phát huy hết tài năng ý nguyện của mình. Cho nên chức vụ của Nguyễn Trãi tuy cao nhưng không đủ quan trọng để thi thố tài 1429 do nghi kị, Lê Lợi đã sai bắt Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo - hai nhân vật vào hàng khai quốc công thần. Năm sau, Nguyễn Trãi cũng bị tống giam nhưng sau đó được tha. Tuy nhiên cho đến tận khi Lê Lợi mất 1432, Nguyễn Trãi vẫn không được giao một trọng trách đáng kể nào. Sau khi Lê Lợi mất, Lê Thái Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi vẫn được làm quan nhưng đó chỉ là chức quan "hữu danh vô thực" mà 1439, Nguyễn Trãi cáo quan về Côn Sơn. Nguyễn Trãi về Côn Sơn mà trong lòng mang nhiều tâm trạng u uất. Năm 1440, khi Lê Thái Tông hiểu Nguyễn Trãi là người có tài có đức bèn triệu ông ra làm quan, phong cho ông chức Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ coi việc Tam quán và kiêm chức Hành khiển Đông Bắc đạo, phụ trách dân bạ tịch Hải Dương, An Quảng. Nguyễn Trãi tin rằng đây là lúc quyền thần bị diệt thì chắc rằng có thể thi thố tài năng - có những ngày tháng hả hê nhất. Thế nhưng cuộc đời Nguyễn Trãi đâu được thỏa ý mà lại rẽ sang ngả đường đầy oan nghiệt bởi vụ án oan tại Trại Vải làng Đại La, Gia Bình, Bắc Ninh ngày nay. Nguyễn Trãi bị vu oan, kết tội thí nghịch và tru di tam mươi năm sau ngày Nguyễn Trãi qua đời 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù Bá, bổ dụng Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc thờ 1962, Đảng và Chính phủ ta đã tổ chức lễ kỉ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất. Sau đó, năm 1980 lại tổ chức lễ kỉ niệm 600 năm Nguyễn Trãi sinh và tổ chức văn hóa - khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc UNESCO ghi nhận ông là Danh nhân văn hóa thế giới và được kỉ niệm rộng rãi trên toàn thế giới. Ở cả hai lần, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ca ngợi Nguyễn Trãi hết lời, coi Nguyễn Trãi "là anh hùng cứu nước, đồng thời là nhà văn lớn, nhà thơ lớn nước ta", coi "Nguyễn Trãi là một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam".Sau thảm họa tru di tam tộc, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị hủy nhiều. Tuy nhiên với một khối lượng lớn sáng tác còn lại thì có thể khẳng định, Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Tác phẩm của ông còn lại, về phần Hán văn có những quyển như, Quân trung tư mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Văn kiaVĩnh Lăng, Văn loại. Sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn sáu chữ.Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Ông đã để lại một khối lượng khá lớn văn chính luận, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, chiếu biểu dưới thời Lê... Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã có ý thức dùng văn chính luận như một vũ khí chiến đấu có hiệu quả nhất cho cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi nhân dân, vì lý tưởng nhân nghĩa. Văn chính luận Nguyễn Trãi có giá trị mẫu mực, cổ điển và là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận dân ra về văn chính luận của Nguyễn Trãi phải kể đến những tác phẩm, Chí Linh sơn phú, Băng hồ di sự lục, Truyện Nguyễn Phi Khanh, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí....Trên lĩnh vực thơ ca, cống hiến của Nguyễn Trãi vào lịch sử văn học cũng lớn lao không kém văn xuôi; có khi qua thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm chúng ta mới thật sự hiểu hết ông - một tâm hồn phong phú và tế nhị, phóng khoáng và sáng sáng tác thơ chữ Hán, người ta luôn nhắc tới Ức Trai thi tập. Tác phẩm gồm 105 bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn và do Trần Khắc Kiệm sưu tập, đề tựa năm 1480. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi giàu tính chất trữ tình tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh di tích lịch sử, tả tâm tình,... và đặc biệt người đọc dường như hiểu nhiều điều về thân thế, cảnh ngộ và niềm tâm sự sâu lắng trong hồn thơ Nguyễn Trãi. Có thể nói, trong văn học Việt Nam, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một tác phẩm đặc sắc và cũng là tập thơ hay bậc nhất của dòng thơ chữ Hán Việt nhiên những đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi với nền văn học dân tộc là tập thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc – Quốc âm thi tập. Đó cũng là lí do quan trọng xuất hiện tập thơ Nôm đầu tiên của nước ta - Quốc âm thi tập. Tác phẩm gồm 254 bài thơ Nôm bộc lộ tâm sự, tình cảm, khí tiết của cá nhân con người Nguyễn Trãi đối với giang sơn đất nước, cỏ cây, cầm thú. Và với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi được xem là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên với số lượng nhiều nhất trong nền thơ cổ điển dân số 2Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam thường được biết đến với vai trò là một tác gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm thuộc các lĩnh vực khác nhau, mà ở bất cứ lĩnh vực nào ông cũng để lại những dấu ấn riêng biệt với nhiều tác phẩm xuất sắc. Đồng thời trong lịch sử Việt Nam Nguyễn Trãi còn là một nhà chính trị quân sự lỗi lạc và tài ba, với học vấn uyên thâm, tầm nhìn xa trông rộng, lòng yêu nước sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của triều Hậu Lê. Tuy nhiên bản thân Nguyễn Trãi dù đã lập nhiều công lao, đóng góp xây dựng đất nước nhiều năm thế nhưng lại phải chịu một kết cục thê thảm, liên lụy tam tộc, mà cho đến ngày nay các sử gia vẫn nhiều lần tranh cãi về sự kiện mang tên án oan Lệ Chi viên còn nhiều bí ẩn Trãi 1380-1442, tên hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau đó gia đình ông dời đến ở Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Ông vốn xuất thân trong một gia đình danh giá, cả hai bên họ nội ngoại đều có truyền thống khoa cử, văn học, truyền thống yêu nước và có chức tước nhiều đời, chính vì thế ngay từ thuở nhỏ Nguyễn Trãi đã được hưởng một nền giáo dục tốt đẹp, trở thành căn cơ cho sự nghiệp của ông sau này. Cha Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh là một nho sĩ hay, từng đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới triều Trần, mẹ ông là bà Trần Thị Thái con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Tuy nhiên, cuộc đời Nguyễn Trãi dù có vẻ là trải gấm hoa nhưng thực tế rằng ngay từ thuở nhỏ ông đã chịu nhiều mất mát đau thương, lúc vừa lên 5 tuổi thì mẹ ông bệnh mất, cha ông không đi tiếp bước nữa mà lặng lẽ một mình nuôi dưỡng các con. Đến năm 10 tuổi thì ông ngoại tức Tư đồ Trần Nguyên Đán người thân thiết và có nhiều ảnh hưởng đến cuộc đời Nguyễn Trãi cũng qua đời, để lại cho ông nhiều tiếc nuối. Nhưng không dừng lại ở đó, năm 1400 sau khi đã thi đỗ Thái học sinh dưới triều Hồ, hai cha con Nguyễn Trãi lập chí cùng phụng sự triều đại mới, thì biến cố xảy ra. Năm 1407, nhà Minh mượn cớ nhà Hồ lên ngôi bất chính, dẫn quân sang đàn áp, nhà Hồ sụp đổ, bản thân Nguyễn Phi Khanh bị giặc áp giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo để tận hiếu, thế nhưng cha ông đã khuyên ông nên ở lại tìm cách báo thù rửa nhục cho đất nước và cho cha. Nguyễn Trãi vâng lệnh cha và từ biệt thân phụ ông tại ải Nam Quan, lần chia tay này cũng là lần cuối ông gặp mặt cha mình. Nguyễn Trãi quay về được Trương Phụ, viên quan nhà Minh chiêu dụ cho ra làm quan, nhưng với tấm lòng yêu nước và lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, Nguyễn Trãi kiên quyết không cam chịu đầu hàng giặc. Điều này khiến Trương Phụ tức giận toan giết Nguyễn Trãi đề phòng hậu họa, thế nhưng Thượng thư Hoàng Phúc tiếc tài Nguyễn Trãi, nên tha chết cho ông và giam lỏng ông ở thành Đông Quan suốt 10 năm trời. Trong khoảng thời gian đằng đẵng đó, không rõ Nguyễn Trãi đã làm những gì, thế nhưng truyền rằng Nguyễn Trãi vẫn luôn canh cánh trong lòng tìm được một minh quân để phò tá, dẹp giặc Minh cứu nước. Và có lẽ rằng từ lâu đã nghe tiếng Lê Lợi thế nên Nguyễn Trãi đã tìm cách trốn khỏi thành Đông Quan và về dưới trướng của Lê Lợi, gia nhập nghĩa quân Lam Sơn, trở thành một vị quân sư tài ba, giỏi thao lược, có nhiều đóng góp to lớn cho sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa, cũng như việc xây dựng một triều đại mới - triều Hậu Lê. Sau khi đại thắng giặc Minh, cuối năm 1427 đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô Đại cáo, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của Đại Việt, có ý nghĩa chính trị sâu sắc, tuyên bố chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn trước 15 vạn đại quân Minh, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập và tự chủ cho đất nước, khẳng định sức mạnh, ý chí dân tộc ta trước giặc ngoại xâm. Tuy nhiên nhà Hậu Lê vừa thành lập không bao lâu, căn cơ còn chưa vững chắc thì Lê Thái Tổ băng hà, triều đình lâm vào khủng hoảng, với những mâu thuẫn nội bộ sâu sắc, hàng loạt các bậc khai quốc công thần đời đầu bị nghi kỵ, cho là có ý chuyên quyền, công cao chấn chủ, và bị thất sủng, trong đó có Nguyễn Trãi, bản thân ông đã không được tin dùng trong suốt 10 năm trời. Điều này khiến Nguyễn Trãi chán nản, bất đắc chí nên xin về ở ẩn tại Côn Sơn vào năm 1438. Đến năm 1439, vua Lê Thái Tông lại có ý mời ông ra giúp nước, Nguyễn Trãi thấy bản thân lại được vua tín nhiệm, thì vui mừng, dành nhiều tâm sức phụng sự đất nước, hăng hái tham gia các công cuộc kiến thiết, xây dựng hoàn thiện thể chế triều đình. Nhưng thật không may rằng, lần quay lại và được vua tin dùng này của ông đã dẫn gia đình ông đến một kết cục không thể vãn hồi. Trong lần đi tuần của Lê Thái Tông ở miền đông, Nguyễn Trãi đã mời vua vào nơi ở ẩn của mình tại Côn Sơn nghỉ ngơi, và cho người thiếp là Nguyễn Thị Lộ vào hầu vua. Không ngờ rằng vua chết bất đắc kỳ tử khi mới 21 tuổi, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ bị khép vào tội giết vua, phải chịu án tru di tam tộc, ngày nay người ta vẫn gọi là thảm án Lệ Chi viên, kết thúc cuộc đời nhiều vẻ vang nhưng cũng lắm thăng trầm của một danh nhân văn hóa thế cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, thì Nguyễn Trãi được biết đến nhiều hơn cả là một bậc kỳ tài có am hiểu trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng có những tác phẩm đạt đến trình độ xuất sắc mà ở đó một số đã trở thành mẫu mực, có ý nghĩa tham khảo, nghiên cứu cho các thế hệ về sau. Về phương diện lịch sử, Nguyễn Trãi đã để lại các tác phẩm là Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia kể về thân thế và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Tác phẩm thứ hai là Lam Sơn thực lục, kể về cuộc khởi nghĩa hơn 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra còn có Chí Linh sơn phú kể về chuyện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba năm 1422, và Băng Hồ di sự lục viết về cuộc đời của Tư đồ Trần Nguyên Đán. Về địa lý, Nguyễn Trãi cũng để lại một cuốn Dư địa chí hay còn gọi với các tên khác như Ức Trai thi tập Nam Việt Dư địa chí, hoặc Lê triều cống pháp. Đây được xem là một bộ sách về địa lý cổ nhất của Việt Nam, ghi chép lại những đặc điểm về sản vật và con người Việt thời trung đại, mà cho đến ngày hôm nay bản thân nó vẫn còn những giá trị tham khảo nhất định. Trong chính trị, quân sự Nguyễn Trãi có các tác phẩm rất nổi tiếng là Bình Ngô Đại cáo và Quân trung từ mệnh tập, ngoài ra còn một số các tác phẩm khác bao gồm các bài biểu, bài chiếu viết dưới hai thời vua Lê. Trong lĩnh vực văn học, Nguyễn Trãi để lại nhiều tập thơ xuất sắc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi trong sự nghiệp thơ văn của mình Nguyễn Trãi còn được mệnh danh là một nhà văn chính luận kiệt xuất đồng thời là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Trong đó với tư cách là nhà văn chính luận kiệt xuất, các tác phẩm của ông chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp chính trị quân sự, gồm các tác phẩm Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần hai, là "áng thiên cổ hùng ca ngàn đời", không chỉ xuất sắc trong cách hành văn lập luận chặt chẽ sâu sắc mà còn đặc biệt với các giá trị nội dung mang tính thời cuộc. Thứ hai là tập Quân trung từ mệnh tập bao gồm các thư từ gửi tướng lĩnh của giặc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có giá trị như các tài liệu ngoại giao, và các bài văn răn đe tướng sĩ, củng cố tinh thần quân đội. Ngoài ra còn có khoảng 28 tác phẩm biểu, chiếu khác nhau. Với nội dung tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm, kết hợp nghệ thuật lập luận, bố cục chặt chẽ, luận điểm luận cứ linh hoạt, sắc bén. Chính vì vậy nên các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi đều được xem là áng văn chính luận mẫu mực mà người đời sau cần học tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi đã sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên vì hàm oan mà hầu như chúng đều bị thiêu hủy, sau này được minh oan, nhưng số lượng thu thập lại cũng chỉ là một phần nhỏ may mắn còn sót lại. Tuy nhiên với bấy nhiêu những tác phẩm cũng đã đủ để thấy được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Trãi trong lĩnh vực thơ ca với những sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó sáng tác chữ Hán hiện còn tập thơ Ức Trai thi tập, sáng tác chữ Nôm hiện còn Quốc m thi tập - tập thơ viết bằng tiếng Việt đầu tiên duy nhất còn sót lại cho đến ngày hôm nay. Nhìn chung các sáng tác thơ của Nguyễn Trãi đều tập trung thể hiện một nội dung chính ấy là con người Nguyễn Trãi với hình ảnh người anh hùng vĩ đại và con người trần thế. Tính anh hùng thể hiện trong tư tưởng xuyên suốt nhiều tác phẩm ấy là lý tưởng yêu nước thương dân, tấm lòng nhân nghĩa, phẩm cách người quân tử thông qua các hình ảnh tượng trưng tùng, cúc, trúc, mai. Con người trần thế bộc lộ thông qua những tình cảm của nhà thơ như nỗi đau đớn, xót xa trước nghịch cảnh đất nước, trước những trò nham hiểm, trêu ngươi của xã hội, hay tấm lòng yêu thiên nhiên, niềm vui sống cuộc đời thanh tao, giản dị, những tình cảm bạn bè, vua tôi, cha con sâu nặng tha thiết,...Với những đóng góp to lớn của mình cho đất nước, Nguyễn Trãi thực xứng danh là một trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam với những công trạng huy hoàng và vĩ đại, được khắc ghi trong lịch sử nước nhà. Trong đó có lẽ quý giá nhất phải kể đến tấm lòng yêu nước sâu nặng, lý tưởng nhân nghĩa lấy nhân dân làm đầu, cùng với tài năng trí tuệ trong lĩnh vực ngoại giao quân sự của mình, Nguyễn Trãi đã góp phần rất to lớn vào khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, mở ra một triều đại mới cho dân tộc. Về văn chương, có thể xem Nguyễn Trãi chính là kết tinh tuyệt vời của hai truyền thống văn học Lý - Trần, cắm một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam, thể hiện cả trên hai bình diện là thể loại và ngôn số 3Nguyễn Trãi 1380-1442 là nhà chính trị nổi tiếng. Ông đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới thời Hồ. Tuy gia thế hiển hách- mẹ là con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long cũng làm quan lớn dưới triều nhà Trần nhưng Nguyễn Trãi sớm chịu những mất mát đau thương tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi mới 10 tuổi. Sau khi đỗ Thái học sinh, ông cùng cha ra làm quan dưới triều nhà 1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha ông bi bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi trốn thoát về đầu quân cho Lê Lợi. Tùy là người trung thành nhưng vì “ nợ nước, thù nhà” ông đành làm kẻ phản chủ. Dưới sự giúp đỡ của Nguyễn Trãi, quân Lam Sơn giành được thắng lợi. Ông hăm hở giúp vua việc nước nhưng bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ, không được tin dùng nhiều. Năm 1439, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn, nhưng đến 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp nước. Năm 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và bị xử án tru di tam năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”, “Lam Sơn thực lục”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”,…Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất. Với tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo” được coi là bản tiên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chật chẽ, lập luân sắc còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của Trãi được coi là một thiên tài văn học, văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Ông đem đến cho nền văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, gốm phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu va đẹp. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế số 4Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại Chí Linh, Hải Dương sau dời về Nhị Khê Thường Tín, Hà Tây. Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 – 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải Lệ Chi Viên, Bắc Ninh. Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điểm cơ bản sauNguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chịu những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch nhà văn, nhà thơ lớn là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. “Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là địch vận. “Bình Ngô đại cáo” lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về quá trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” viết về địa lý lịch sử nước ta. “Chí Linh sơn phú” nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán. Năm 1980, Nguyễn Trãi được Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế số 5Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật kiệt xuất. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao Khuê không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Ông là “khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc”. Ông là một người đa tài, ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã góp công rất lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác gia xuất sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời Trãi 1380–1442 hiệu là Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng và yêu nước. Cha ông là 1 học trò nghèo đỗ Thái học sinh - Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã phải chịu nhiều bi ông lên 5 tuổi đã phải chịu cảnh mồ côi mẹ. Sau đó không lâu, ông ngoại cũng qua đời. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông là một chuỗi những gian nan, thử 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh tiến sĩ năm 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử 1406, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh - Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người".Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo".Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh Thăng Long chỉ là một túp nhà tranh góc thành Nam lều một gian. Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi . Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” đột ngột đổ xuống hãm hại ông. Ông và gia đình phải chịu tội chu di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước, tìm con cháu còn sót lại và bổ nhiệm làm đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành."Bình ngô đại cáo "là áng" thiên cổ hùng văn "trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà... Về lục sử có "Lam Sơn thực lục" là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và "Dư địa chí" viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trải có "Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập""Quốc Âm thi tập" được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt. Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn, vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn - đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Trãi. Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị, những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên, đối với ông thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình ruột văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc, ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu, biểu, lục, ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong, để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất. Đó là những bài thơ giàu trì tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong kiến. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chẳng những góp phần viết nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo". Thời gian có thể phủ rêu lên tất cả nhưng ánh sao khuê ấy vẫn sẽ mãi soi rọi đến các thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi sẽ mãi là niềm tự hào của nước số 6Nguyễn Trãi là người tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước thiết tha, là nhà quân sự tài ba, là nhà văn nhà thơ lỗi lạc. Nguyễn Trãi đúng là một đại văn hào của dân tộc, có nhiều đóng góp lớn cho dân tộc nhưng lại là người chịu nhiều bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước Trãi hiệu Ức Trai, sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê ở Nhị Kê Hà Tây , phụ thân là Nguyễn Phi Khanh, phụ mẫu là Trần Thị Thái, cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, là người có xuất thân từ dòng dõi quý tộc. Ông là người thông minh từ nhỏ, rất chịu khó học, năm 1400 ông đỗ Thái học sinh. Cuộc đời của Nguyễn Trãi trải qua rất nhiều thăng trầm, lên 6 tuổi mẹ qua đời, ông đỗ Thái học sinh vào năm 20 tuổi. Hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh tràn sang cướp nước ta, Nguyễn Phi Khánh bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo chăm sóc cha. Sau đó ông đã trở về và làm nên chiến thắng cho dân tộc vào 10 năm sau khi đất nước trở lại yên bình, chán ngán với chốn quan trường, ông đã xin về ở ẩn. Đến năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn. Ông đã giúp vua rất nhiều trong việc trị vì đất nước. Mọi chuyện đang diễn ra rất tốt đẹp thì nhà vua chết đột ngột, bọn gian thần vu cho ông âm mưu giết vua, khép tội chu vi tam tộc 1442. Nguyễn Trãi và dòng tộc đã phải mang nỗi oan nghiệt đó suốt 20 năm và đến năm 1464 Lê Thánh Tông mới giải tỏa nỗi oan này cho Nguyễn Trãi, ban chiếu truy tìm hậu duệ còn xót lại của Nguyễn Trãi và ban cho chức chỉ có vậy, Nguyễn Trãi còn để lại cho kho tàng văn học dân tộc rất nhiều những tác phẩm có giá trị. Sau khi bị dính vào nghi án giết vua, nhiều tác phẩm tác phẩm của ông từng bị ra lệnh tiêu hủy. Sau nhiều năm, những tác phẩm giá trị ấy mới được sưu tầm. Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị về quân sự và chính trị, Nguyễn Trãi có ”Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ và giấy tờ giao thiệp với giặc Minh và triều đình nhà Lê.“Bình ngô đại cáo” là áng ”thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà … Về lục sử có ”Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ”Dư địa chí” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trải có "Ức trai thi tập, Quốc Âm thi tập”. ”Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng văn Nguyễn Trãi luôn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Ông luôn một lòng suy nghĩ, tìm cách để đem lại sự yên bình cho dân. Ông yêu thiên nhiên và coi thiên nhiên là bầu bạn của để lại nhiều tác phẩm thơ chữ Hán với thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong và để lại những bài thơ giàu trì tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí dũng song toàn trong lịch sự Việt Nam thời phong Trãi đúng là một danh nhân lẫy lừng của dân tộc, ông tạo nền tảng cho văn học nước nhà, có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Ông là người đã dành hết cuộc đời mình để lo cho dân cho nước. Ghi nhớ công lao của Nguyễn Trãi, năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế số 7Ức Trai tâm thượng quan Khuê TáoNguyễn Trãi không những được người người khâm phục ở tài năng quân sự mà còn khâm phục ông là một con người tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước thiết tha. Văn võ song toàn, cống hiến suốt đời và đóng góp to lớn cho sự nghiệp cứu và dựng nước, đáng là bậc anh hùng nước ta. Với những chiến lược quân sự tài ba, lời lẽ chau chuốt của một nhà ngoại giao chính trị, lời văn mượt mà tha thiết của một nhà văn hóa, Nguyễn Trãi đáng là một đại văn hào của dân tộc. Song ông cũng chịu nhiều bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước Trãi không chỉ có tài năng chính trị, quân sự mà còn là một đại quan thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Nguyễn Trãi 1380-1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở Chí Linh – Hải Dương, sau chuyển về Hà Tây. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hóa, văn học. Cha là Nguyễn Phi Khanh, đỗ Thái học sinh Tiến sĩ đời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái – con quan Tư đồ Tể tướng Trần Nguyên Đán. Tuổi thơ Nguyễn Trãi chịu nhiều mất mát 5 tuổi chịu tang mẹ, 10 tuổi chịu tang ông ngoại. Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, hai cha con cùng ra làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa sang Trung Quốc, ghi sâu lời dặn của cha, Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn. Cuối năm 1427 đầu năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo”. Năm 1439, triều đình ngày cáng rối ren, gian thần lộng hành, trung thần bị sát hại, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Năm 1440, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông mời ra giúp nước. Ông lại hăng hái nhiệt tình phò vua giúp nước cứu đời. Năm 1442, Nguyễn Trãi mắc oan án Lệ Chi Viên, bị tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Năm 1980, UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế Trãi để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác văn học có giá trị lớn lao. Nguyễn Trãi sáng tác ở rất nhiều thể loại, viết bằng chữ Nôm và chữ Hán, thành công ở cả văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng tác phẩm lớn, có giá trị đối với nền Văn học dân tộc. Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận xuất sắc. Với “Quân trung từ mệnh tập” có sức mạnh bằng mười vạn quân, “Bình Ngô đại cáo” và nhiều văn bản chiếu, biểu, Nguyễn Trãi được coi là bậc thầy của văn chính luận Trung đại. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt những văn bản chính luận của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Về nghệ thuật, văn chính luận Nguyễn Trãi đạt trình độ mẫu mực trong việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng biện pháp thích hợp; kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén. Nguyễn Trãi còn là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” chữ Hán và “Quốc âm thi tập” chữ Nôm đã khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại với lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân lúc nào cũng thiết tha, mãnh liệt; phẩm chất và ý chí sáng thường hay héo cỏ thường tươi”Thơ trữ tình Nguyễn Trãi có đóng góp lớn cho văn học dân tộc từ sự phát triển của ngôn ngữ chữ Nôm, Việt hóa thể thơ Đường cả sang tạo ra thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Thơ Nguyễn Trãi giàu hình ảnh ước lệ, nhưng cũng mang hơi thở cuộc sống, vừa có khuynh hướng trang nhã vừa có xu hướng bình dị. Nguyễn Trãi là một thiên tài văn học của dân tộc, Nguyễn Trãi vừa kết tinh thần truyền thống Văn học Lí – Trần, vừa mở đường cho cả một giai đoạn phát triển mới. Về nội dung, thơ Nguyễn Trãi chưa đứng hai nguồn cảm hứng của dân tộc yêu nước, nhân đạo. Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Trãi đóng góp to lớn cho văn học dân tộc cả về thể loại và ngôn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông là anh hùng dân tộc, là nhà từ tưởng, nhà thơ, nhà văn hoá của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao như Lê thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quan Khuê Táo”.Mẫu số 8Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một người anh hùng dân tộc đồng thời là Danh nhân văn hoá thế giới. “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ” Phạm văn Đồng.Nguyễn Trãi 1380 – 1442 hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại Hải Dương sau dời về Nhị Khê Thường Tín, Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Thân sinh là Nguyễn úng Long sau đổi là Nguyễn Phi Khanh, một nho sinh nghèo, học giỏi, thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên ĐánCuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm Biến cố trong gia đình mẹ mất lúc 5 tuổi, khi ông 27 tuổi, cha và em bị bắt đày sang Trung Quốc. Biến cố của đất nước nhà Hồ lên thay nhà Trần, giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê, trong thời bình triều đình chia rẽ, rối ren.Sống trong thời đại bi hùng của lịch sử, cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời của một người anh hùng lẫy lừng nhưng lại oan khuất và bi kịch nhất trong lịch sử .Nguyễn Trãi đã sớm khắc sâu nợ nước thù nhà từ lời dặn của cha năm Trãi có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và công cuộc chống giặc Minh. Ông tham gia khởi nghĩa từ năm 1417 với tư cách là một quân sư tài ba. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Sau đó, ông hăm hở tham gia công cuộc xây dựng đất Trãi không thực hiện được hoài bão của mình trong thời bình. Những mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến dẫn đến việc sát hại các công thần. Nguyễn Trãi tùng bị nghi oan, bị bắt giam rồi được tha. Tình thế ấy buộc ông phải xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc. Thật không may, ba năm sau 1442, vua đột tử trong lần đi kinh lí miền Đông. Bọn gian thần nhân cơ hội này đã buộc tội Nguyễn Trãi và khép ông vào tội tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và sưu tầm lại thơ văn của là một bậc đại anh hùng của dân tộc và là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Đồng thời, ông cũng là người chịu oan khuất nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là nhân vật toàn tài hiếm có với nhiều đóng góp nổi bật trong mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế là người có sự nghiệp văn chương đồ sộ với đủ các thể loại trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Những tác phẩm viết bằng chữ Hán có Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Sáng tác bằng chữ Nôm có Quốc âm thi tập 254 bài thơ chữ Nôm viết theo thể Đường luật, Đường luật xen lẫn lục ngôn. Ngoài ra, ông còn để lại bộ Dư địa chí – một bộ sách cổ nhất về địa lí của nước Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc vì ông để lại một khôi lượng khá lớn các tác phẩm chính luận. Tiêu biểu như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu viết dưới triều giá trị nội dung, những áng văn chính luận của ông có đóng góp lớn cho sự nghiệp chiến đấu và xây dựng đất nước của triều Hậu Lê. Quân trung từ mệnh tập gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giấy tờ để giao thiệp với triều đình nhà Minh. Tác phẩm là sự kết hợp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết văn chính luận bậc thầy của Nguyễn Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác kẻ thù, là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Trong đó, nền tảng của những giá trị đó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hoà làm giá trị nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, bút pháp thay đổi linh hoạt tuỳ vào đối tượng và mục đích sử văn Nguyễn Trãi là tâm hồn của ông, trong sáng và đầy sức sống. Cả hai tập thơ Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đã ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần người anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện ở hai khía cạnh lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lí tưởng anh hùng là sự kết hợp nhân nghĩa với yêu nước thương dân. Còn phẩm chất anh hùng thể hiện ở sự mạnh mẽ, kiên trung, vì nước, vì dân chiến đấu chống ngoại xâm và chống cường quyền bạo hợp với con người anh hùng, trong tâm hồn Nguyễn Trãi còn có con người trần thế. Nguyễn Trãi đau nỗi đau của con người và yêu tình yêu con người. Nguyễn Trãi đau nỗi đau cho mình thì ít mà đau đời thì nhiều. Ông thường xót xa cho thói đời đen bạc “Phượng những tiếc cao diều hãy liệng/ Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”. Ông khát khao một cuộc sống thái bình, thịnh trị cho dân “Rượu năm ba chén đổi công danh! cầu một ngày coi đời thái bình”.Tình yêu Nguyễn Trãi dành nhiều cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống. Và đặc biệt, với Nguyễn Trãi “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo một tâm hồn” Xuân Diệu. Thiên nhiên trong thơ chữ Nôm của ông bình dị, dân dã tạo nên một môi trường sống thanh cao mà ở đó con người giữ được những vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn “Quét trúc bước qua dòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Ông đến với thiên nhiên như về với người bạn tri kỉ để gởi gắm triết lí và tình cảm thân thiết ruột thịt “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ ú ấp cùng ta làm cái con”. Nguyễn Trãi luôn dành những tình cảm nồng hậu, ấm áp cho bạn bè, người thân, làng xóm, quê hương…Có thể nói, khía cạnh con người trong thời anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình kiệt xuất còn bởi ông đã đóng góp cho thơ ca Việt Nam những thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh trên cả hai bình diện cơ bản là thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ thất ngôn xen những câu lục ngôn là những cố gắng lớn của ông trên con đường Việt hoá thơ Đường luật. Ông còn đưa vào trong thơ những chất liệu chưng cất từ ngôn ngữ của đời sông hằng ngày và sử dụng một cách sáng tạo những thi liệu dân gian ca dao, tục ngữ….Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc. Ông đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần đồng thời mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới. về nội dung Văn chương Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng là yêu nước và nhân đạo. Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại. về nghệ thuật Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã đạt nền móng cho thơ ca tiếng Việt về hai phương diện ngôn ngữ và thể loại. Ông đã để lại tập thơ Nôm sớm nhất làm di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo. Cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp thu và phát huy những thành tựu thơ ca và văn hoá của Nguyễn Trãi còn mãi với thời gian là người anh hùng dân tộc kì tài nhưng cũng là người oan khuất nhất trong lịch sử. Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ kiệt xuất vừa là danh nhân văn hoá thế giới. Thơ chữ Hán cũng như chữ Nôm của ông, chính luận hay trữ tình đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một con người vĩ đại và con người đời thường. Ông là bông hoa đầu mùa của thơ Nôm Việt số 9Nguyễn Trãi người anh hùng đại tài không chỉ thể hiện tài năng quân sự mà còn yêu nước hết lòng tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước. Ông thể hiện trình độ trong quân sự, đồn thời còn là bậc anh hùng. Nguyễn Trãi con người văn võ song toàn của dân tộc song ông trải qua nhiều bất hạnh oan uổng và trở thành thảm kịch trong lịch sử nước Trãi 1380-1442 với hiệu là Ức Trai, quê gốc nằm ở tỉnh Hải Dương. Ông trưởng thành trong gia đình mà cha và mẹ đều nổi Trãi khi còn nhỏ chịu nhiều đau thươn như 5 tuổi mất mẹ, 10 tuổi mất ông ngoại. Năm 1400, khi nhà Hồ tổ chức kỳ thi, ông đỗ Thái học sinh, cha với con đều cùng nhau làm quan nhà 1407, giặc Minh tấn công xâm lược đất nước, nhà Hồ thất thủ, trong khi đó cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi uất ức nhưng không thể làm gì khác đành tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống giặc thời gian năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh thành công, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”.Sau một thời gian làm quan, vào năm 1439, triều đình có nhiều biến chuyển khi gian thần lộng hành khắp nơi. Chán nản Nguyễn Trãi xin vua quay về ở 1440, Lê Thái Tông kêu gọi nhân tài nên mời ông ra làm quan và giúp việc nước. Ông nghe lời vua bèn ra sức cứu dân độ thế. Năm 1442, Nguyễn Trãi và vợ của mình dính vào oan án Lệ Chi Viên hãm hại vua, bị kết tội bi thảm tru di tam và gia đình 3 đời bị xử trảm. Lệ Chi Viên vụ án thảm khốc nhất trong lịch sử nước nhà .Mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi được công nhân danh nhân văn hóa thế giới vào năm Trãi có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà. Ông sáng tác nhiều tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán, văn chính luận, thơ trữ tác phẩm xuất sắc như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo” và nhiều chiếu, biểu, có giá trị khác. Các tác phẩm ông có tư tưởng chính đó là sự nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” chữ Hán và “Quốc âm thi tập” chữ Nôm nằm trong số các tác phẩm vô cùng giá trữ tình của ông giản dị, giàu hình ảnh có tính ước lệ. Nguyễn Trãi thiên tài văn học nổi tiếng có sự kết tinh của tinh thần Văn học Lí – Trần. Nội dung, thơ Nguyễn Trãi có sự kết hợp giữa lòng yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo sâu Trãi nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông thiên tài quân sự và giàu lòng yêu nước, thương dân. Đúng như vua Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Tên tuổi ông sẽ mãi mãi sáng như ánh sao khuê, niềm tự hào của dân tộc Việt số 10Nguyễn Trãi 1380-1442 là bậc đại anh hùng dân tộc, là một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử nước nhà, là danh nhân văn hóa thế giới nhưng đồng thời cũng là người phải chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Trãi xuất thân trong gia đình cha là nhà nho nghèo, mẹ thuộc dòng dõi quí tộc nhà Trần. Nguyễn Trãi sớm mồ côi mẹ, thuở nhỏ được sự nuôi dạy cẩn thận của của ông ngoại Trần Nguyên thi đỗ và làm quan cho nhà Hồ cùng với cha năm 1400. Đến 1407, giặc Minh đến cướp nước ta, cha Nguyễn Trãi bị bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi theo cha, nhưng đến biên giới, nghe lời cha, Nguyễn Trãi quay lại tìm cách rửa nhục cho bị giặc Minh giam lỏng 10 năm ở thành Đông Quan, sau đó trốn thoát được, tìm vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi tiến hành cuộc kháng chiến chống Minh đến toàn thắng năm hăm hở tái thiết xây dựng đất nước nhưng bị gian thần ghen ghét, bị nghi ngờ, không được tin dùng 1439, ông xin về ở ẩn, nhưng đến 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông ra giúp 1442, nhà vua đi duyệt võ ở Chí Linh, có ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, rồi đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần vu cho tội giết vua và bị xử án tru di tam năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự, giáo dục, nhà lập pháp tài ba của dân tộc ta. Không chỉ vây, ông còn là cây đại thụ đầu tiên của văn học Việt Nam. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm . Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”…Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo được đánh giá là “thiên cổ hùng văn”, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc. “Quân trung từ mệnh tập” được đánh giá là “có sức mạnh bằng 10 vạn quân”. Các tác phẩm chính luận có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của Trãi có đóng góp lớn vào việc phát triển chữ Nôm và Việt hóa thơ Đường qua việc sử dụng thuần thục thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Nguyễn Trãi đưa vào thơ những hình ảnh dân dã quen thuộc một cách tự nhiên, tinh được đánh giá là thiên tài văn học, là hồn thơ kết tinh tinh hoa văn hóa Lí-Trần, là người mở đường cho cả một giai đoạn mới của thơ viết bằng tiếng Việt. Thơ văn ông hội tụ đủ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân số 11Nguyễn Trãi là một nhà thơ, nhà văn lỗi lạc, nhà quân sự tài ba, là vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Ông là một đại diện hùng hồn cho khí phách và tinh hoa của dân tộc ta. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của thiên tài Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước, yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang mà ông đã trọn đời theo đuổi. Dẫu cuộc đời phải chịu nhiều oan trái, tên tuổi của Nguyễn Trãi mãi mãi là niềm tự hào lớn lao của nhân dân Trãi sinh năm 1380 mất năm 1442, quê ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Xuất thân quyền quý đã tạo cho Nguyễn Trãi chí khí hơn người. Chính điều đó đã giúp ông vượt qua biết bao gian khổ và tạo lập sự nghiệp vĩ đại sau nhỏ, dẫu mẹ mất sớm, Nguyễn Trãi đã cố công chăm lo học tập để nối nghiệp tổ tông. Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh và ra làm quan với cha dưới thời hồ Quý Ly. Năm 1407 giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, ông cũng đi theo chăm sóc. Nghe lời cha, ông trở về quê nhà tìm kế cứu nước, báo thù. Trở về, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quan. Khi nghe tin ở vùng Lỗi Giang, đất Lam Sơn có Lê Lợi đang chiêu binh khởi nghĩa, Nguyễn Trãi lập tức trốn khỏi Đông Quan, vào Lam Sơn yết kiến và dâng “Bình Ngô sách” lên Lê Lợi, sau đó trở thành vị quân sư “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”.Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi soạn thảo “Bình Ngô đại cáo”, bố cáo toàn thiên hạ về sự nghiệp đánh giặc Minh cứu nước vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn, mở ra một thời kì thái bình, thịnh trị của đất nước. Sau đó, ông được cử làm Chánh chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền kêu gọi hiền sĩ ra giúp nước. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm pha khiến nhà vua không còn tin tưởng. Quá buồn rầu,Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn, gửi gắm niềm tâm sự vào thơ ca. Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước. Được tin dùng, ông lại đem hết tâm sức ra giúp nước, giúp dân, làm nên không biết bao nhiêu điều tốt nhưng, oan nghiệt thay, đang tận lực phụng sự triều đình thì tai họa lại xảy ra đối với gia đình nguyễn Trãi. Năm 1442, nhà vua sau khi đi kinh lý, ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, đã băng hà ở Vườn Lệ Chi. Lợi dụng việc này, bọn gian thần đã vu khống khiến toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đây có thể coi là oan án lớn nhất và thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến nước năm 1464, vua Lê Thánh Tông sau khi đã xem xét, đã xuống chiếu minh oan cho ông và tìm kiếm con cháu của Nguyễn Trãi còn sót lại cho ra làm quan, kết thúc những tháng ngày sống lẩn khuấtNguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trãi còn là một thiên tài lỗi lạc nhưng có cuộc đời đầy oan khuất. Ông quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc. Công lao quý giá nhất và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước yêu dân tha thiết và sự nghiệp đánh giặc cứu nước vô cùng vẻ vang của tình yêu nước thương dân nồng nàn, tha thiết, ông đã đem hết tâm hồn, trí tuệ, tài năng phục vụ lợi ích của dân tộc trong phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng chính trị quân sự ưu tú và tài ngoại giao kiệt xuất của Nguyễn Trãi đã dẫn đường cho phong trào khởi nghĩa Lam Sơn đi tới thắng lợi. Tố chất thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc trong một cao điểm của lịch sử. Thiên tài ấy đã để lại một sự nghiệp lớn về nhiều mặt mà chúng ta còn phải tiếp tục tìm hiểu thêm mới có thể đánh giá đầy đủ và chính xác được. Dầu sao, nếu chỉ xét về mặt văn hóa thì cũng có thể khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã cắm một cột mốc quan trọng trên con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực văn Trãi để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, tất cả các tác phẩm nảy thể hiện phẩm chất trung quân ái quốc của ông. Nhiều tác phẩm trở thành áng văn bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Có thể kể ra một số tác phẩm như “Bình Ngô dại cáo”, “Dư địa chí “, “Lam Sơn thực lực”, “Phú núi Chí Linh”, “Quốc âm thi tập”, “Ức Trai thi tập”…Thơ ca của Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc. Thương dân, trừng phạt kẻ có tội điếu phạt tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân trừ bạo, đem lại yên vui, hạnh phúc cho nhân dân yên dân, đó là việc nhân nghĩa“Việc, nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo”.Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là “Đại nghĩa” nghĩa lớn vì nước vì dân, là lòng “chí nhân” thương người vô hạn“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,Lấy chi nhân để thay cường bạo”.Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân “cuồng Minh”“Ngẫm thù lớn há đội trời chung,Căm giặc nước thề không cùng sống”.Tư tưởng nhân nghĩa của ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng “trung hiểu” và niềm “ưu ái” lo nước, thương dân“Bui có một lòng trung lẫn hiếuMài chàng khuyết, nhuộm chăng đen”.“Bui một tấc lòng ưu ái củ,Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”.Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, với với quê hương, gia đình. Ông dành tình yêu lớn đối với cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông…“Kho thu phong nguyệt đầy qua nócThuyền chở yên hà nặng vạy then”.Ông yêu quê hương, gia đình thiết tha“Quê cũ nhà ta thiếu của nàoRau trong nội, cá trong ao”.Ông yêu thích và tự hào danh lam thắng cảnh đất nước “Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,Muôn hộc xanh om tóc mượt màu”.Ông sống một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao, khiết tịnh“Một tấm lòng son ngời lửa năm thanh chức ngọc hồ băng”.Nếu thơ ca của Nguyễn Trãi mèm mại, uyển chuyển thì văn chính luận như “Bình Ngô đại cáo” lại rất hùng hồn, giọng điệu đanh thép, lí luận sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc chiến thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời. Thơ chữ Hán thì hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm hết mực bình dị mà tài hoa, thiết tha đằm thắm. Thơ thất ngôn xen lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Trãi đã một bước phá vỡ tan tành luật thơ Đường Luật vốn thâm căn cố đế bao Trãi đã có những bước đột phá trong cách tân thể loại thất ngôn bát cú Đường luật và mở ra một thời kì phát triển huy hoàng của chữ Nôm, đánh dấu một móc son chói loại của nền thi ca dân tộc.– Nguyễn Trãi suốt đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân. Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào “Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao”. Cấy cày là niềm vui “Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê”. Người dân bùn lấm đáng được biết ơn “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh “Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là”, “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng”, xa lánh chốn lợi danh nham hiểm “Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe”. Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm “lòng thơm”.– Lòng thơm ấy là lòng yêu nước thương dân. Có khi ông gọi đó là “lòng trung hiếu”, “lòng ưu ái”. Nó suốt đời sôi nổi “Bui có một lòng trung liễn hiếu, Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”, “Bui một tấc lòng ưu ái cũ, Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Nó dựa trên lý tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng cao qúy xuyên thấm cuộc đời và thơ văn ông. Đối với ông, nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo” hay “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”. Được như vậy mới thực sự “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Nhân trí, anh hùng ấy thuộc lòng yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vời. Nói cụ thể như “cái nhân, cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Đất nước bị ngoại xâm, nó hiện thành lòng lòng căm thù giặc cao độ và ý chí kiên trì, gang thép tiêu diệt quân thù “Căm giặc nước thề không cùng sống”, “Nếm mật nằm gai, há phải một sớm hai tối, Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”. Quân giặc quét sạch rồi, nó là khát khao xây dựng một đất nước hưng thịnh, nhân dân đời đời ấm no hạnh phúc..– Nguyễn Trãi – Bậc đại anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài của lịch sử Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi là một nhà chính trị vĩ đại, một nhà quân sự tài ba, một nhà ngoại giao lỗi lạc, một nhà văn, một nhà thơ kiệt xuất. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm năm sinh của Trãi là bậc anh hùng lỗi lạc, một nhà văn hóa vĩ đại, là đại thi hào kiệt xuất dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, danh nhân văn hoá thế giới. Một con người phải chịu những oan khiên thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Nguyễn Trãi còn là ông tiên ở trong lầu ngọc thi ca mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào dàn số 12Trên bầu trời văn học Việt Nam có rất nhiều vì sao sáng. Xuất hiện vào thế kỉ XV và có ánh sáng rực rỡ nhất thế kỉ này chính là vì sao Khuê —Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại nay thuộc Chí Linh, Hải Dương, sau dời đến làng Ngọc Ổi nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây. Cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng . Long sau đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh vốn là học trò nghèo, thi đỗ Thái học sinh còn mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý Trãi sinh ra và lớn lên trong một thời đại đầy biến động dữ đội. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Li lên thay, lập ra nhà Hồ. Năm 1400, Nguyễn Trãi đi thi, đỗ Thái học sinh. Cả hai cha con Nguyễn Trãi đều làm quan cho nhà quân Minh sang cướp nước ta, chúng bắt cha con Hồ Quý Li cùng các triều thần đem về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. NguyễnTrãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng đã theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, nghe lời cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho nước, ông trở vẻ và bị giặc bắt giữ ở Đông Quan. Sau Nguyễn Trãi bỏ trốn theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách nay đã thất truyền và được tin dùng. Ông trở thành quân sư số một của Lê Lợi. Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, cùng Lê Lợi bàn mưu tính kế, giúp Lê Lợi soạn các văn thư, chiếu lệnh, góp công lớn trong sự nghiệp giải phóng đất khi đuổi xong giặc Minh, Nguyễn Trãi chưa kịp thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị, của dân hòa mục thì cuộc đời ông lại sang một trang mới, khó khăn và bi thảm. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi mở một cuộc thanh trừng các tướng sĩ, Nguyễn Trãi cũng nằm trong số đó. Suốt mười năm 1429 – 1439, Nguyễn Trãi không được tin dùng. Năm 1439, ông xin cáo quan về ở Côn Sơn nhưng mấy tháng sau Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc nước. Đang tràn trề hi vọng một thời cơ mới thì ba năm sau năm 1442, một thảm họa đã giáng xuống Nguyễn Trãi và gia đình mình. Vụ án Lệ Chi Viên, vụ án oan lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đã cướp đi sinh mệnh, khiến ông mãi mãi không còn cơ hội thực hiện hoài bão của thời, Nguyễn Trãi sáng tác rất nhiều thơ văn. Song sau khi ông mất, nhiều tác phẩm của ông bị ra lệnh tiêu hủy. Năm 1467, Lê Thánh Tông mới truyền lệnh sưu tầm tác phẩm của Nguyễn Trãi nhưng rồi lại bị thất tán. Đến đầu thế kỉ XIX, tác phẩm của ông mới được tìm lại và nửa cuối thế kỉ XIX mới được khắc Trãi sáng tác trên nhiều phương diện, phương diện nào cũng có những tác phẩm hay, độc đáo. Về quân sự và chính trị, ông có Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo. Trong đó, Quân trung từ mệnh tập là tác phẩm gồm một số thư từ, biểu, quân lệnh gửi cho các tướng của ta và những bức thư ông nhân danh Lê Lợi viết để giao thiệp với tướng nhà Minh, thực hiện kế hoạch “tâm công”. Bình Ngô đại cáo là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử, tổng kết đầy đủ và xúc động cuộc kháng chiến chống quân Minh anh dũng và cũng là bản tuyên ngôn về lòng yêu hòa bình của nhân dân ta. Ông còn có 28 bài phú, chiếu, biểu, tấu, bi kí, lực…, tiêu biểu là Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục. Về lịch sử, Nguyễn Trãi viết Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, ghi lại quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, khẳng định tư tưởng gắn bó với nhân dân là điều kiện tiên quyết của mọi thắng lợi. Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có Dư địa chí – một tác phẩm địa lí nhất còn lại ở nước ta. Về văn học, Nguyễn Trãi có Ức Trai thi tập — tập thơ chữ Hán và Quốc âm thi tập —- tập thơ chữ Nôm đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca tiếng suốt các sáng tác thơ văn của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên. Nếu như tư tưởng nhân nghĩa của nhà nho để cao việc yêu người, tạo dựng cho người, không áp đặt cho người Kỉ dục lập nhi lập thân, Ki sở bất dục vật thi ư nhân, thì ở Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước thương dân. Nguyễn Trãi với truyền thống dân tộc, hiểu nhân nghĩa theo nội dung yêu nước, thương dân. Nhân nghĩa là làm cho nhân dân sống yên ổnViệc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạoBình Ngô đại cáoNhân nghĩa là khiến cho muôn dân được ấm no, hạnh phúcDẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương.Cảnh ngày hèCùng với tư tưởng nhân nghĩa, thơ văn Nguyễn Trãi còn thể hiện những triết lí sâu sắc về thế sự, nhân sinhDưới công danh đeo khổ nhụcTrong dại dột có phong lưu.Ngân chí, bài 2Phượng những tiếc cao, diều hãy liệng,Hoa thì hay héo, cô thường tươi. Tự thuật, bài 9Người trị âm ít, cầm nên lặngLòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu.Tức sự, bài 10Thơ văn Nguyễn Trãi không chỉ bộc lộ những tư tưởng lớn lao mà còn thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ, rất mực yêu thiên nhiên, xem thiên nhiên như bầu bạn, cư xử với thiên nhiên như đối với con người– Núi láng giềng, chim bầu bạnMáy khách khứa, nguyệt anh tam.Thuật hứng, bài 19– Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá,Rừng tiếc chim về ngại phát cây.Mạn thuật, bài 6Đi liên với những giá trị tư tưởng sâu sắc đó là những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Trước hết, với Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo, Nguyễn . Trãi là một nhà văn chính luận kiệt xuất. Quân trung từ mệnh tập là tập văn chính luận phản ánh đầy đủ chiến lược “công tâm” của quân Lam Sơn. Còn Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng, đanh mảng thơ ca, Nguyễn Trãi đã thể hiện một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn qua các sáng tác chữ Hán. Còn với thơ Nôm, ông để lại những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời với một thứ ngôn ngữ tinh luyện, trong sáng, đăng đối một cách cổ điểnThạch lựu hiên còn phun thức đỏ,Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.Bảo kính cảnh giới, bài 43Ao cạn vớt bèo cấy muống,Đìa thanh phát cỏ ương sen.Thuật hứng, bài 24Nguyễn Trãi còn là nhà thơ sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm. Chỉ trong một bài thơ tám câu nhưng có đến bốn câu thơ ông sử dụng sáng tạo tục ngữ dân gian Ở bầu thì tròn ở ống thì dài; Xấu tốt rập khuôn; Gần nhà giàu đau răng ăn cám, gân kê trộm ốm lưng chịu đòn; Gần mực thì đen gần đèn thì rạngỞ bầu thì dáng ắt nên tròn,Xấu tốt đều thì rắp cận nhà giàu no bữa cám,Bạn bè kê trộm phải no cùng đứa dại nên bầy dại,Kết mấy người khôn học nết đống thấp thì nên đấng thấp,– Đen gân mực, đỏ gần son.Bảo kính cảnh giới, bài 21Cũng chính Nguyễn Trãi đã đưa vào thơ ca những hình ảnh thân thuộc như “lảnh mồng tơi”, “bè rau muống”, “vị núc nác”.. dân dã, quê kiểngTả lòng thanh, mùi núc nácVun. đất di, lãnh mồng tơi.Ngôn chí, bài 9Ao quan thả gửi bè rau muống,Đất Bụt ương nhờ một lảnh mùng.Thuật hứng, bài 23Cơm ăn dầu có dựa muối,Áo mặc nài chỉ gấm thêu.Ngôn chí, bài 3Và cũng chính Nguyễn Trãi đã Việt hóa một thể thơ của Trung Quốc khi sáng tạo nên hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn độc đáoBui có một lòng trung lẫn hiếu,Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.Thuật hứng, bài 24Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,Dân giàu đủ khắp đòi phương.Bảo kính cảnh giới, bài 43Với tất cả những gì đã làm được cho nhân dân, dân tộc, với tất cả những gì đã để lại cho nhân loại, Nguyễn Trãi xứng đáng là danh nhân văn hóa lỗi lạc Trên tư cách một nhà văn, nhà thơ, ông là người có công đầu trong việc đặt nền móng cho thi ca Việt Nam. Năm 1980, ông được Unessco công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới và tổ chức kỉ niệm 600 năm năm sinh của đây là tuyển chọn những bài văn mẫu thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi hay nhất dành cho các bạn học sinh lớp 10 tham khảo. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 nhé. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 10 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn bạn đọc cùng tham khảo thêm tài liệu học tập của bài tiếp theo Thuyết minh về tệ nạn ma túyTOP 8 bài Thuyết minh Bình Ngô đại cáoThuyết minh bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán SiêuThuyết minh về cổng trại ngày xuânViết một đoạn văn thuyết minh về tình yêu thiên nhiên tâm hồn của Nguyễn Trãi Lượt xem STUDY ON IDEOLOGICAL LITERARY THEORY OF NGUYEN TRAI Tác giả bài viết NGUYỄN CÔNG LÝTrường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn VNU-HCM TÓM TẮT Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự – chính trị – ngoại giao thiên tài, nhà văn nhà thơ lỗi lạc mà còn là nhà tư tưởng lý luận văn nghệ với những quan niệm tiến bộ và đúng hướng. Khác với một vài thi hào thời trung đại, họ thường thể hiện tư tưởng và quan niệm về văn học nghệ thuật qua các bài Tự, Bạt, hay những đoạn thẩm bình thì Ức Trai tiên sinh lại thể hiện qua thơ. Bài viết này, thông qua những sáng tác trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập để khái quát và chỉ ra có hệ thống những quan niệm, tư tưởng lý luận văn học nghệ thuật của Nguyễn Trãi. Từ khoá tư tưởng, lý luận, văn nghệ, Nho giáo, Nguyễn Trãi. ABSTRACT Nguyen Trai is not only military – political – diplomatic genius, poet, eminent poet, but also the ideological and literary theorist with the notion of progress and on track. Unlike some medieval poets, they often expressed thoughts and conceptions of literature and art through Preface Tu, Afterword Bat, or the average piece evaluating, Uc Trai expressed through poetry. This article, through the works of Uc Trai on Uc Trai poetry collection and Quoc am poetry collection to generalize and indicate systematic notions, ideological literary theories, and Confucianism in Vietnam of Nguyen Trai. xx x 1. Giới thiệu Nguyễn Trãi 1380-1442 không chỉ là nhà văn nhà thơ lỗi lạc cắm mốc khai sáng nền văn học cổ điển Việt Nam, nhà văn hoá lớn, nhà quân sự và nhà ngoại giao kiệt xuất với những chiến lược chiến thuật nhất quán, mà còn là một nhà lý luận văn nghệ tiên phong. Cho dù ở lĩnh vực lý luận văn nghệ, Ức Trai không nêu tuyên ngôn hay phát biểu trực tiếp, nhưng qua những trước tác hiện còn, người đọc có thể chắt lọc được những tư tưởng lý luận văn nghệ cùng một số quan niệm mang tinh thần Nho giáo Việt Nam của tiên sinh. Sau vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt mùa thu 1442, Nguyễn Trãi và gia tộc bị triều đình kết án tru di, nhưng sau đó không lâu, các triều đại phong kiến đều lần lượt minh oan cho ông. Chẳng hạn, vua Lê Nhân Tông 1442-1459, có lần đến Bí thư các và đọc được bản thảo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, nhà vua đã phát biểu rằng“Nguyễn Trãi là người trung thành, lấy võ giúp đức Thái Tổ dẹp yên loạn lạc, lấy văn giúp đức Thái Tông xây nền trị bình, văn chương đức nghiệp của ông, các danh tướng bản triều không ai sánh kịp. Không may vì kẻ phụ nhân gây biến để người lương thiện mắc oan, thật rất đáng thương! Nói xong, nhà vua đem quyển sách để ở đầu giường làm gốc cho việc chính trị”. Lời văn trên là do Lý Tử Tấn – bạn đồng khoa, đồng liêu với Nguyễn Trãi đã chép lại lời dụ của vua Lê Nhân Tông khi ông được lệnh biên tập lại Dư địa chí 1. Tiếp theo, vua Lê Thánh Tông 1460-1497 năm 1464 ban chiếu minh oan và cho tìm con cháu Nguyễn Trãi để bổ dụng chức quan, truy tặng tước Tán Trù bá và cấp 100 mẫu ruộng để tế tự. Năm Đinh Hợi 1467, nhà vua sai Trần Khắc Kiệm sưu tầm thơ văn của Nguyễn Trãi. Năm 1494, trong bài Minh lương tập Quỳnh uyển cửu ca, nhà vua có lời thơ ca ngợi“Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” Tấm lòng Ức Trai sáng như văn chương của ông. Năm Nhâm Thân 1512, vua Lê Tương Dực 1510-1516 truy tặng Nguyễn Trãi tước Tế Văn hầu. Năm Nhâm Ngọ 1822, vua Minh Mạng 1820-1841 triều Nguyễn truy phong cho ông tước Khê Quận công. Dịp này, nhà vua sai Dương Bá Cung là người cùng làng sưu tầm di văn của Ức Trai. Dương Bá Cung đã bỏ ra hơn 10 năm ròng mới hoàn thành bộ Ức Trai di tập gồm 07 quyển. Dương Bá Cung cùng Nguyễn Thâm người cháu trực hệ soạn lại gia phả Nguyễn Nhị Khê, viết lời Tựa. Năm Mậu Thìn 1868, triều Tự Đức, bản Ức Trai di tập được khắc in bởi Phúc Khê đường tàng bản. Đây là di sản thơ văn Nguyễn Trãi hiện còn đến hôm nay. Riêng tác phẩm Quân trung từ mệnh sau này đã được Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh tìm thêm một số bức thư và văn kiện, bổ sung rồi sắp xếp lại văn bản do Dương Bá Cung đã sưu tầm. Năm Nhâm Dần 1962, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức kỷ niệm lần thứ 520 năm ngày mất của Nguyễn Trãi. Năm Canh Thân 1980, Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Uỷ ban Văn hoá – Giáo dục – Khoa học UNESCO của Liên Hiệp Quốc tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh, tôn vinh Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hoá thế giới. Về trước tác, qua nhiều lần sưu tầm qua các thời đại, được biết Nguyễn Trãi đã để lại những tác phẩm sau Quân trung từ mệnh tập 1423-1427, Băng Hồ di sự lục 1428, Bình Ngô đại cáo đầu 1428, Lam Sơn thực lục 1431, hiệu đính, Chí Linh sơn phú, Vĩnh Lăng thần đạo bi ký 1433, Dư địa chí 1435, Ức Trai thi tập2 , Quốc âm thi tập, Văn loại gồm các bài Chiếu, Cáo, Biểu, như Bình Ngô đại cáo 1428, Tạ ân biểu 1440, Thạch khánh đồ 1437, hiện thất lạc, Luật thư 1441-1442, hiện thất lạc, Giao tự đại lễ hiện thất lạc. 2. Một số quan niệm – tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi Trước khi tìm hiểu tinh thần Nho giáo Việt Nam trong tư tưởng lý luận văn nghệ của tiên sinh, thiết nghĩ cũng cần nên tìm hiểu cội nguồn những cơ sở hình thành quan niệm và tư tưởng lý luận văn chương của Nguyễn Trãi. Qua gia phả và qua cuộc đời, có thể thấy Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng từ dòng họ với truyền thống cương trực, khảng khái, khí tiết cứng cỏi, đấu tranh chống lại cường quyền, bạo lực, chống cái xấu, cái ác làm hại nước hại dân. Bên cạnh, nhà thơ còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng, văn hoá và học thuật cùng nhân cách của ông ngoại, của cha mẹ. Nguyễn Trãi đã từng sống đời sống thanh bần, giản dị ở Côn Sơn, ở Nhị Khê từ thuở thiếu thời, cũng như mười năm tìm đường cứu nước và mấy năm cáo quan về Côn Sơn, sống gần gũi với nhân dân nên tiên sinh đã thấu hiểu dân tình, đồng cảm những cảnh ngộ cùng khổ của nhân dân. Dù bản thân là nhà Nho, nhưng Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều nguồn văn hoá tư tưởng trong kinh sách Tam giáo Nho, Phật, Đạo; từ truyền thống văn hoá tư tưởng nhân dân; từ tinh hoa văn hoá thời đại Lý – Trần; từ thực tế cuộc sống bản thân, từ hiện thực thời đại lịch sử rồi dung hoà, nâng cao thành hệ tư tưởng của thời đại phục hưng dân tộc sau chiến thắng giặc Minh xâm lược. Tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng chung, tiêu biểu cho tư tưởng Đại Việt ở thế kỷ XV. Vì thế, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, tuy khái niệm này là của Nho gia nhưng quan niệm của ông có khác với Khổng Mạnh, và khác xa với Tống Nho, bởi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mang nội dung thân dân, vì dân. Yêu nước chính là yêu dân, khát vọng xây dựng đất nước hoà bình thịnh trị, nhân dân ấm no hạnh phúc với chủ trương “yên dân, trừ bạo”. * Bàn về quan niệm văn chương Nguyễn Trãi, ở nước ta, người đầu tiên đặt vấn đề này để tìm hiểu tương đối có hệ thống là GS. Đinh Gia Khánh với tiểu luận “Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi” in trong công trình “Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi” NXB Khoa học Xã hội, 1982, tr. 204-214. Trong bài viết này, mặc dù tác giả không ghi thành đề mục cụ thể, song có thể nêu lên 5 điểm như sau 1. Mối quan hệ giữa nhà văn và người chiến sĩ; 2. Dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu vì nước vì dân; 3. Mối quan hệ giữa gốc và văn; 4. Nhà thơ tìm đề tài và cảm hứng từ cuộc sống; 5. Tác dụng của văn nghệ. Trước đó, trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII, tập 2 1979, tại chương viết về tác gia Nguyễn Trãi, giáo sư cũng đã có trình bày sơ lược về quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi, và dĩ nhiên là chưa có hệ thống và đầy đủ như trong bài viết vừa nêu. Tiếp theo, trong hai chuyên khảo Về quan niệm văn học cổ Việt Nam 1982 và Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam 1997, GS. Phương Lựu ít nhiều có nhắc đến quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Cũng vậy, trong luận án Tiến sĩ của Lê Giang Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam 2001 và của Nguyễn Thanh Tùng Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX 2010 đều có nhắc đến quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trong quan niệm chung về lý luận văn nghệ thời Hậu Lê sơ. Gần đây, trong công trình Lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam 2013 của Phòng Lý luận văn học – Viện Văn học Việt Nam do Trịnh Bá Đĩnh chủ biên, có một mục viết về quan điểm lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi, mục này do Đinh Thị Minh Hằng thực hiện, nhưng xem ra ý tưởng và luận điểm lại không có gì mới nếu so với tiểu luận của GS. Đinh Gia Khánh viết từ năm 1980. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã có cùng đọc sâu văn chương Nguyễn Trãi, nhất là thơ, ở đây xin được trình bày có hệ thống về tư tưởng lý luận văn nghệ của Ức Trai tiên sinh. Qua văn chương, Nguyễn Trãi đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ Thông thường các vị Tiên Nho hay phát biểu quan niệm của mình về văn chương qua các bài Tự, bài Bạt. Riêng Ức Trai tiên sinh đã phát biểu vấn đề này qua nhiều bài thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Ở đó, tiên sinh đã nêu lên mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống, sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ. Trong bài thơ Nôm “Tự thán số 2”, Nguyễn Trãi viết Non hoang tranh vẽ, chập hai ngàn, Nước mấy dòng thanh, ngọc mấy hoàn hòn. Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng, Cật chưng hồ hải đặt chưa an. Những vì thánh chúa âu đời trị, Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn. Thừa chỉ ai rằng thì thời khó ngặt, Túi thơ chứa chất mọi giang san. Nhà thơ đã tự hào vì túi thơ chứa chất cảnh đẹp của núi sông Tổ quốc, hồn thơ trĩu nặng tình đời. Từ đó, có thể nói ở Nguyễn Trãi, con người hành động nhà yêu nước thương dân và con người sáng tác người nghệ sĩ chân chính luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau. Ức Trai là mẫu người điển hình về sự gắn bó giữa nhà văn và người chiến sĩ đấu tranh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người. Đây là minh chứng hùng hồn về mối liên hệ mật thiết giữa văn nghệ và cuộc sống. Nhà thơ suốt đời chưa được ngả lưng an cật, luôn đeo nặng nỗi ưu tư vì nhân dân; suốt đời ôm ấp khát vọng lớn, lý tưởng cao cả là làm sao cho đất nước thái bình thịnh trị, với nỗi niềm “tiên ưu hậu lạc”. Qua văn chương, Nguyễn Trãi còn nêu lên trách nhiệm của người cầm bút và thể hiện niềm tự hào lớn về trách nhiệm này Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 5, thi hào viết Văn chương chép lấy đòi câu thánh, Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung. Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng. Lời thơ có tính chất như một tuyên ngôn văn học, Nguyễn Trãi đã gắn văn chương với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm người. Văn chương gắn liền với hành động “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”; văn chương gắn liền với phẩm chất “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Ở nước ta, muốn làm được như thế, muốn bảo vệ cuộc sống và khẳng định giá trị con người thì trước hết phải bảo vệ Tổ quốc, khẳng định dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi đã thể nghiệm sâu sắc nhất điều này. Nguyễn Trãi quan niệm văn chương phải là vũ khí chiến đấu chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, vì hạnh phúc của dân Bài thơ Nôm Bảo kính cảnh giới số 56, nhà thơ viết Đao bút phải dùng tài đã vẹn, Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước, Điện Bắc đà đà yên phận tiên. Ngày xưa, khi chưa chế tạo ra giấy và bút lông, người xưa dùng dao khắc chữ vào tre, trúc, gỗ. Thời Nguyễn Trãi đã có giấy bút nhưng ông vẫn dùng “đao bút” dùng đao làm bút. Cũng có thể hiểu ngòi bút là một thứ vũ khí chiến đấu đắc lực và có hiệu quả nhất. Thực tế là trong những năm tháng chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã dùng đao bút để viết các từ mệnh, các lệnh chỉ, mà người đời sau, khi sưu tập di sản thơ văn này đã gộp lại dưới nhan đề là Quân trung từ mệnh tập. Ở tập văn chương luận chiến này, Nguyễn Trãi đã dùng sức mạnh của văn chương chính nghĩa mà tập hợp lực lượng của ta để tấn công quân địch. Nhà thơ không ngừng “ra tay thước” tức trổ hết tài năng để chiến đấu, nhằm mục đích “vệ Nam” tức bảo vệ sông núi nước Nam. Muốn làm được điều ấy thì phải “điện Bắc” tức dẹp yên giặc Bắc, lúc này mới có thể xây dựng được cuộc sống ấm no, nhân dân an cư lạc nghiệp, sống đời thái bình, chẳng khác nào cuộc sống cảnh tiên an nhàn “đà đà yên phận tiên”. Rõ ràng, theo Nguyễn Trãi, ngòi bút phải là một thứ vũ khí chiến đấu vì Tổ quốc, vì dân tộc, vì nhân dân. Quan niệm này, trước Nguyễn Trãi người đọc có thể bắt gặp ở Lý Thường Kiệt khi vị tướng tài ba này đã có ý thức dùng bài thơ của Thần để khích lệ lòng yêu nước, tinh thần quyết chiến đấu của quân đội Đại Việt trong cuộc chiến tranh vệ quốc trong chiến dịch năm 1075-1077. Hay như việc Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn với bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn cũng vậy. Ngay cả trong bài Tựa của một quyển sách mang nội dung tư tưởng triết học Phật – Thiền Khoá hư lục mà Trần Thái Tông đã viết “Văn bút tảo thiên quân chi trận; Vũ lược mưu bách kế chi công” văn bút như trận chiến quét sạch ngàn quân; Mưu lược như trăm kế đánh vào thành giặc để nêu lên một quan niệm văn chương cực kỳ hiện đại. Đành rằng chuyện làm thơ đuổi giặc thoái lỗ thi ở Trung Quốc cũng đã có từ trước như thơ của Lý Bạch chẳng hạn, nhưng ở Việt Nam ta đã tiếp thu và có biến đổi cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền của dân tộc. Qua văn chương, Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng thân dân, yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân Thơ văn Nguyễn Trãi còn thể hiện tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân. Dân theo quan niệm của thi hào là “manh lệ”, “xích tử”, “lê dân”, “thương sinh”, “sinh linh”. Đây là cái nhìn mới mẻ, thể hiện một quan niệm rất tiến bộ về nhân dân mà trước đó chưa một tác giả nào đề cập đến và nói nhiều như Nguyễn Trãi đã nói trong thơ văn của ông 3, ví dụ như trong Bình Ngô đại cáo – Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo. – Hân thương sinh ư ngược diệm; Hãm xích tử ư hoạ khanh. – Manh lệ chi đồ tứ tập Tư tưởng thân dân, nỗi niềm yêu thương nhân dân, có ý thức chăm lo quyền lợi và hạnh phúc của dân trên cơ sở của tinh thần dân chủ và rộng mở còn thể hiện rõ trong quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi. Văn nghệ phải gắn bó với hiện thực cuộc sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong văn chương Việt Nam, Nguyễn Trãi là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa gốc và văn, giữa nội dung và hình thức Có lần vua Lê Thái Tông giao cho Nguyễn Trãi soạn lại lễ nhạc của triều đình, nhân lúc ông dâng biểu đề nghị vẽ lại chiếc khánh đá – một biểu tượng văn hoá – trên cơ sở đó xây dựng một nền âm nhạc chân chính mang đậm bản sắc dân tộc, qua lời tâu “Kể ra, thời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay, đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc không thể đứng vững được, không có văn không thể lưu hành được. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần vâng chiếu làm nhạc, không dám không hết lòng hết sức, nhưng vì học thuật nông cạn, sợ rằng trong khoảng thanh luật khó được hài hoà. Xin bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho các nơi làng mạc, thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán giận than sầu, đó là không mất cái cỗi gốc của nhạc vậy”4. Sau đó, như Đại Việt sử ký toàn thư có chép “Nhà vua khen và chấp nhận, sai thợ đá ở huyện Giáp Sơn lấy đá tốt ở núi Kính Chủ để làm”5. Bàn về âm nhạc mà Nguyễn Trãi nhắc vua thi hành chính sách khoan dân, thân dân, để qua đó thể hiện rõ quan điểm văn nghệ của ông. Đó là mối quan hệ giữa “gốc” và “ văn”. Theo Nguyễn Trãi, “gốc” là nội dung tư tưởng cơ bản của văn nghệ, mà cái “gốc” này phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống sinh động và phong phú; “văn” là hình thức biểu hiện của văn nghệ. “Gốc” và “Văn”, nội dung và hình thức có mối quan hệ hữu cơ, ở đó nội dung quyết định hình thức. Xây dựng âm nhạc không phải chủ yếu và trước hết quan tâm đến “văn”, tức chú trọng hình thức, kỹ xảo, âm thanh mà phải quan tâm hàng đầu và chủ yếu là cái “gốc”, tức nội dung. Nội dung ấy là “hoà bình” chỉ sự yên bình, hài hoà của tâm hồn, của cuộc sống. Như vậy, từ mối quan hệ giữa „gốc‟ và „văn‟, giữa “hòa bình” và “thanh âm”, Ức Trai đã nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung và hình thức trong một tác phẩm văn nghệ, mà mối liên hệ này gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời sống nhân dân. Vì thế, lời tâu ấy càng thể hiện sâu đậm tấm lòng ưu ái rừng rực “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” với dân với nước của Ức Trai tiên sinh. Nguyễn Trãi chủ trương nhà văn cần tìm đề tài và cảm hứng từ hiện thực cuộc sống, tức nêu lên quan niệm văn học phải phản ánh hiện thực đời sống Bài Tự thán số 3 Qua đòi cảnh chép câu đòi cảnh; Nhàn một ngày nên quyển một ngày. Điều đó có nghĩa là bất kỳ cảnh vật, đời sống nào cũng đều là đối tượng miêu tả, phản ánh của văn nghệ sĩ. Nguyễn Trãi còn yêu cầu nhà văn cần trổ hết tài năng để xây dựng tác phẩm; cần năng động, có khí phách hào hùng, tâm hồn dạt dào cảm hứng, tức cần khả năng tinh nhạy khi nhận thức và phản ánh hiện thực cuộc sống qua bài Tự thán số 19 Tài tuy chăng ngộ, trí chẳng cao, Quyển đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh phá luỹ khúc, Mình làm thi tướng đứng Đàn Tao. Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa, Đòi thì vậy, dễ hơn nào. Bài thơ có vẻ trào lộng, nhưng đã thể hiện quan niệm của Nguyễn Trãi về văn chương. Ở đây, Ức Trai ví người làm thơ chẳng khác nào người làm tướng, dù có ít tài trí nhưng nếu quyết chí làm được thì như bậc anh hào. Người làm thơ chính là vị thi tướng mà chiến địa là Tao đàn, khi uống rượu vào thì sẽ phá tan cái luỹ khúc của làng say. Người làm thơ cần trổ hết tài sức, cảm xúc để thể hiện như đánh đàn thì phải trố hết ngón, chơi cờ thì phải đi hết nước. Đây là công việc quen thuộc, cũng như người đi săn bắt chim trong rừng, người câu cá bắt cá dưới ao, tức ý nói nhà thơ phải tóm thâu tất cả thế giới hiện thực vào trong túi thơ của mình. Nếu nhà thơ làm được như thế thì quý biết bao, còn có gì anh hùng hơn. Như vậy, theo Ức Trai, nhà văn chân chính cần có tính năng động, có cảm hứng dồi dào, tâm hồn giàu sức sống, khí phách hào hùng. Người đọc có thể tìm thấy ý tưởng vừa nêu trong bài thơ chữ Hán “Hý đề” Đề chơi nước, núi, hoa, chim dưới con mắt người đời thì nhiều khi chỉ là bình thường, nhưng dưới cái nhìn của thi nhân thì đó là nguồn thi liệu vô cùng phong phú để thi nhân cảm hứng và tái hiện đề thơ, qua hai câu kết Nhãn để nhất thì thi liệu phú, Ngâm ông thuỳ dữ thế nhân da? Trước mắt, trong một lúc, thi liệu đến dồi dào như thế, Thì trong đời ai dễ sánh được với thi nhân?. Bài Trần tình số 6, ông viết Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ, Vầng nguyệt lên thuở nước cường. Mua được thú màu trong thuở ấy, Thế gian hay một khách văn chương. Thế gian này cần có những khách văn chương, tức nhà văn nhà thơ để có thể mua được, vẽ lại được những “thú màu”, những cảnh đẹp cho mọi người, cho độc giả. Bài Mạn thuật số 13 có câu Khách đến, vườn còn hoa lác, Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào. Thơ vừa làm xong, trăng đã bước vào nhà. Thơ gọi trăng vào nhà hay trăng đã gợi thi hứng cho thi nhân? Ngoại cảnh đã kích thích lôi cuốn nhà thơ. Điều này trong vài bài thơ khác, Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện ý vừa nêu, như hai câu đầu bài Vọng Doanh Vọng Doanh đầu mộ hệ ngâm thuyền, Thi cảnh liêu nhân, vãn hứng thiên. Chiều hôm đến Vọng Doanh buộc chiếc thuyền thơ, Cảnh nên thơ ghẹo người, hứng buổi chiều lôi cuốn. Hoặc trong bài Hạ nhật mạn thành, nhà thơ viết ở hai câu thực Song tiền hoàng quyển công môi thuỵ, Hộ ngoại thanh sơn cố sách ngâm. Trước cửa sổ, quyển sách vàng khéo làm mồi ngủ, Ngoài cửa ngăn, núi xanh vẫn giục giã ngâm thơ. Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh và đề cao tác dụng của văn nghệ Trong bài Chu trung ngẫu thành, bài 2 có câu “Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát /Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao”. Một làn điệu dân ca, một khúc dân nhạc đã tác động đến thiên nhiên, hay thi nhân tưởng tượng, cảm giác như thế khi lắng nghe câu hát của ông chài, tiếng sáo của người chăn trâu? Làn điệu dân ca toả ra trên mặt nước, lan dần ra vô biên mà tác giả cảm nhận như mặt hồ rộng thêm; Tiếng sáo vút lên trên bầu trời đêm trăng mà thi nhân ngỡ là trăng như cao thêm trên bầu trời lồng lộng. Câu thơ sau Khách lạ đến ngàn, hoa chửa rụng; Câu thần ngâm dạ, nguyệt càng cao Thuật hứng, bài 7 cũng có ý tương tự như trên. Đây là một quan niệm rất chính xác và sâu sắc về tác dụng của văn nghệ, trong đó có thơ văn, mà qua thực tiễn cuộc sống, thực tế chiến đấu và thực tiễn sáng tác vô cùng đa dạng, phong phú của chính Nguyễn Trãi, nên nhà thơ đã nhận chân được ý nghĩa, tác dụng của văn nghệ đối với đời sống của dân tộc, của nhân dân, và đối với tâm hồn con người. 3. Lời kết Tóm lại, qua những gì trình bày ở trên, có thể khẳng định Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam – người khai sáng nền thơ ca cổ điển Việt Nam mà còn là nhà lý luận văn nghệ kiệt xuất với một quan niệm văn học đúng đắn và tiến bộ mang bản sắc Việt Nam. Tư tưởng lý luận văn nghệ của Nguyễn Trãi đến nay vẫn còn nguyên giá trị, trong đó có một số quan niệm, tư tưởng rất gần gũi với tư tưởng lý luận văn học hiện đại. CHÚ THÍCH 1 Nguyễn Trãi, Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, Quyển VI, tờ 33a. 2 Tập thơ chữ Hán của Ức Trai có 107 bài. Xin xem Nguyễn Công Lý, Thêm hai bài thơ chữ Hán của Ức Trai tiên sinh, Tạp chí Hán Nôm, số 5-2011. 3 Theo thống kê của GS. Đinh Gia Khánh thì danh từ “dân” được Nguyễn Trãi dùng trong thơ văn đến 155 lần. 4 Đại Việt sử ký toàn thư bản kỷ thực lục, quyển XI, tờ 35 a, 35 b – Bản dịch của Viện Sử học, tập 3, NXB Khoa học Xã hội, 1972, trang 113; và Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 17, tờ 3 a. 5 Sđd, bản dịch, trang 113. 6 Dưới triều nhà Hồ, Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh và ra làm quan, được nhà Hồ bổ nhiệm chức Hàn lâm viện Học sĩ chức quan đứng đầu Viện Hàn lâm đời Hồ kiêm Tế tửu Quốc tử giám chức học quan đứng đầu trường đại học ở kinh đô; Nguyễn Trãi được bổ chức Ngự sử đài chánh chưởng chức quan phụ trách giữ ấn triện của Ngự sử đài, có thể tương đương với Chánh văn phòng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay. 7 Như trường hợp Bùi Dương Lịch chẳng hạn, ông làm quan ở ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn, Nguyễn. Vì thế người đương thời triều Nguyễn có thơ chế giễu Cảnh Hưng cử Tiến sĩ/ Tây nguỵ nhập Hàn lâm/ Bản triều vi Đốc học/ Dữ thế cộng phù trầm. 景興舉進士,西偽入 翰林,本朝為督學, 與世共浮沉. Đời Cảnh Hưng được đỗ Tiến sĩ/ Triều Tây Sơn làm ở viện Hàn lâm/ Đến triều ta triều Nguyễn làm Đốc học/ Ông ta thật đúng là chìm nổi với cuộc đời. Dẫn dụ một trường hợp như thế để thấy sự linh hoạt và uyển chuyển của các nhà Nho Việt Nam trong việc tiếp nhận và vận dụng chữ “Trung”. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, Số 4 29-2016 Thánh Địa Việt Nam Học Nguyễn Trãi là một tượng đài lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về con người tài năng này qua Bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi, Ngữ văn 10, Kết nối tri thức, học kì II do đội ngũ biên soạn nhé! Bài viết liên quan Giải Toán lớp 3 sách Kết nối tri thức với cuộc sống Link tải Sách giáo khoa lớp 4 Kết nối tri thức PDF Giải bài tập trang 65 SGK Toán 3 Tập 2, sách Kết nối tri thức với cuộc sống Giải Toán lớp 7 trang 108, 109 tập 1 sách Kết Nối Tri Thức Giải Toán lớp 7 sách Kết nối tri thức với cuộc sống Đề bài Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của danh nhân Nguyễn văn Sự liên quan giữa những sự kiện và dấu mốc trong cuộc đời Nguyễn Trãi với sự nghiệp văn học của ông hay I. Dàn ý bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi1. Mở bài- Dẫn dắt và giới thiệu về tác gia Nguyễn Nêu cảm nhận, đánh giá khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thân bàia, Khái quát chung- Nguyễn Trãi 1380 - 1442, hiệu Ức Là một nhà chính trị, nhà văn, nhà thơ, Danh nhân văn hóa thế Có những đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học nước Cuộc đời Nguyễn Trãi Cuộc đời của một con người tài hoa nhưng bạc mệnh- Sinh ra trong một giai đoạn lịch sử nhiều biến động+ Sự sụp đổ của triều đại nhà Hồ.+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và sự lên ngôi của Lê Lợi.+ Nội bộ triều đình nhà Lê nảy sinh nhiều xung đột, nhiều công thần bị hãm Từng từ quan về Côn Sơn ở ẩn do ghét bỏ sự thối nát của triều Do bản tính trung trực, liêm khiết mà bị kẻ gian hãm hại, gây ra thảm án Lệ Chi viên+ Gia đình Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc.+ Thơ văn bị cấm đoán, tiêu hủy.+ Đến tận năm 1464 mới được vua Lê Thánh Tông minh Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi* Một sự nghiệp đồ sộ, mang lại nhiều đóng góp quan trọng cho văn học trung đại Việt Nam- Số lượng các tác phẩm đồ sộ+ Chữ Hán "Ức Trai thi tập", "Quân trung từ mệnh tập", "Bình Ngô đại cáo", "Lam Sơn thực lục", "Dư địa chí", "Chí Linh sơn phú", "Băng Hồ di sự lục".+ Chữ Nôm "Quốc âm thi tập".- Bao gồm nhiều lĩnh vực quân sự, chính trị, lịch sử, địa lí, văn học.* Về nội dung thơ văn Đa dạng đề tài, giàu giá trị tư tưởng và đậm chất trữ tình- Tư tưởng nhân nghĩa thương dân, trung quân, ái Tình yêu thiên Những ưu tư về thế sự.* Về đặc điểm nghệ thuật- Ngòi bút chính luận sắc sảo, đạt đến trình độ mẫu Các sáng tác thơ chữ Hán đạt tới sự nhuần nhuyễn, điêu Sáng tạo ra được thể thơ riêng bằng chữ Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của dân Đánh giá - Tuy có một cuộc đời trắc trở, đầy biến cố nhưng Nguyễn Trãi vẫn tỏa sáng với tài năng chói lóa và những giá trị đạo đức quý Thơ văn Nguyễn Trãi là tập đại thành của văn học trung đại Việt Kết bài- Khẳng định ý kiến, quan điểm về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Liên hệ mở Bài văn mẫu nghị luật cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ Nguyễn Trãi tham khảo 1. Viết bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi - mẫu số 1"Danh nhân văn hóa thế giới" Nguyễn Trãi là một trong những người có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến văn học Việt Nam. Cuộc sống tuy nhiều thăng trầm nhưng sau tất cả, con người ông vẫn sáng ngời phẩm chất, giá trị đạo đức tốt đẹp cùng tài năng "ngàn năm có một". Ông đã trở thành một tượng đài trong lòng người dân đất thông tin từ sách báo, có thể thấy, Nguyễn Trãi là một con người "tài hoa bạc mệnh". Ông có tài năng, có nền tảng gia đình tốt đẹp. Nhưng tiếc thay, ông lại sống trong một giai đoạn lịch sử hỗn loạn hỗn loạn. Sự sụp đổ và vùng lên của các triều đại phong kiến gây ra bao lục đục, mâu thuẫn nội bộ. Rất nhiều công thần chính trực, liêm khiết bị bọn xu nịnh hãm hại, trong đó có cả Nguyễn Trãi. Không chỉ phải chịu án thảm khốc "chu di tam tộc", tất cả các tác phẩm của ông cũng bị hủy hoại. Chỉ đến khi vua Lê Thánh Tông giải oan vào năm 1464, văn thơ Nguyễn Trãi mới dần được tìm kiếm và khôi phục nghiệp văn học của Nguyễn Trãi không chỉ nổi tiếng bởi mức độ đồ sộ, đa dạng mà còn bởi những giá trị vượt thời đại mà nó mang dung chủ đạo xuyên suốt các tác phẩm của Ức Trai có thể kể đến tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và nỗi lòng ưu tư về thế sự. Đó là tấm lòng trung quân, ái quốc, trọng dân, ơn dân sâu sắc, quý báu của người làm quan. Đó là những rung động, cảm nhận, chiêm nghiệm đầy tinh tế của tâm hồn người nghệ sĩ về cuộc sống. Và đó cũng là băn khoăn, trăn trở trước thời cuộc. Nhìn vào thực tế xã hội đổ vỡ với bộ máy chính quyền thối nát, Nguyễn Trãi chỉ còn biết thở dài đầy cay chỉ xuất sắc về nội dung, thơ văn Nguyễn Trãi còn là sự kết tinh hoàn hảo của vô số hình thức nghệ thuật đặc sắc. Với vai trò là nhà chính trị, ông đã vô cùng thành công với thể loại văn chính luận. Ngòi bút của ông đạt đến trình độ mẫu mực, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các tư tưởng, đạo đức Nho giáo với chân lí, quy luật tất yếu của cuộc sống. Thơ ông dù bằng chữ Hán hay chữ Nôm thì đều sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật một cách điêu luyện, giản dị, đậm đà tính dân tộc. Đặc biệt, ông còn sáng tạo nên thể thơ Nôm riêng khi đưa những câu thơ sáu chữ vào bài thơ thất ngôn vô cùng hài hòa. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã đóng góp nhiều giá trị lớn cho sự phát triển và hoàn thiện của văn học trung đại Việt ra trong một thời đại loạn lạc với vô vàn cám dỗ, Nguyễn Trãi đã chứng tỏ sự thanh khiết, chính trực của một bậc đại trượng phu qua vô vàn áng thơ văn giàu tính triết lí. Tuy cuộc đời gặp nhiều thăng trầm, bi kịch nhưng ông vẫn sáng ngời đức tính tốt đẹp. Ông mãi là một trong những tượng đài lớn của nền văn học nước về Nguyễn Trãi, Xuân Diệu đã từng nhận xét "Trán thi sĩ vượt mây nhưng trong ruột thơ vẫn cháy lên ngọn lửa đời rất ấm". Câu nói ấy là lời khẳng định cho cái cao cả, bao la của thơ văn Nguyễn Trãi, đánh thức bao cảm xúc mãnh liệt ẩn sâu trong tâm hồn mỗi người. Những tác phẩm của ông đã, đang và sẽ còn nguyên giá trị đối với mọi thế hệ sau văn Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi hay nhất2. Viết bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi - mẫu số 2Chỉ cần là người Việt Nam, ai cũng sẽ ít nhất một lần nghe qua cái tên Nguyễn Trãi. Ông là một trong những tác gia vĩ đại nhất đất Việt, đem tới vô số đóng góp cho nền văn học trung đại nước ta. Tuy có một cuộc đời đầy biến động nhưng tài năng của ông chưa bao giờ bị sóng gió kia vùi Trãi 1380 - 1442 có hiệu là Ức Trai. Không chỉ là nhà chính trị tài ba, ông còn là nhà văn, nhà thơ, được người đời công nhận là "Danh nhân văn hóa thế giới". Bằng tài năng cùng sự đức độ của mình, ông đã đem đến nhiều đóng góp lớn lao cho sự phát triển của nền văn học nước thể thấy, Nguyễn Trãi là một nhân tài hiếm có. Tuy vậy, cuộc đời của ông lại vô cùng trắc trở, sóng gió. Ông sinh ra trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, khi mà các triều đại phong kiến liên tục "đổi chủ". Từ sự sụp đổ của nhà Hồ đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và các đời vua Lê, đâu đâu cũng thấy được mặt ngang trái trong xã hội. Nguyễn Trãi từng phải từ quan về Côn Sơn ở ẩn chỉ để rời xa cái thị phi, đốn mạt của đám nịnh thần. Ấy vậy mà ông vẫn không thoát được khỏi bị vu oan. Thảm án Lệ Chi viên đã khiến gia đình ông bị "chu di tam tộc". Biết bao tác phẩm văn thơ cũng từ đó mà bị tiêu hủy, cấm đoán. Mãi cho đến 20 năm sau, ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan, trả lại sự trong sạch, liêm khiết cho tên tuổi của lên trên cuộc đời bạc phận, Nguyễn Trãi đã để lại cho đời một kho tàng văn thơ đồ sộ. Có thể kể đến những tác phẩm chữ Hán với "Ức Trai thi tập", "Bình Ngô đại cáo",... hay chữ Nôm với "Quốc âm thi tập".Về nội dung, thơ văn Nguyễn Trãi rất đa dạng về đề tài, giàu giá trị tư tưởng và đậm chất trữ tình. Đầu tiên chính là tư tưởng nhân nghĩa - thứ được tiếp thu, chọn lọc một cách kĩ càng từ Nho giáo. Không chỉ có tấm lòng trung quân ái quốc, ông còn luôn đặt nhân dân lên hàng đầu, biết ơn và trân trọng đồng bào. Tiếp đó, các tác phẩm của ông chưa bao giờ thiếu đi tình yêu và sự hòa hợp với thiên nhiên. Điều này đã góp phần thể hiện tâm hồn đầy lãng mạn, tinh tế ở người nghệ sĩ. Và cuối cùng chính là sự trăn trở về thế sự. Sinh ra và trưởng thành trong một bối cảnh xã hội nhiễu loạn, ông đã chuyển cảm xúc vào con chữ, dùng nó để lên án, tố cáo sự bất công, ngang trái của thời nghệ thuật, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp nổi bật mà Nguyễn Trãi đem đến cho sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Nổi bật nhất phải kể tới ngòi bút chính luận sắc sảo, đạt đến độ mẫu mực bậc nhất lúc bấy giờ. Ông có thể sử dụng các thể thơ Đường luật một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện, tạo ra bao tuyệt phẩm vừa mang đậm dấu ấn cá nhân, vừa mang giá trị tư tưởng sâu sắc. Thơ chữ Nôm của ông được nhận xét là "đỉnh cao của dòng thơ quốc âm thời trung đại". Tất cả đã thể hiện rất rõ tài năng cũng như sức sáng tạo vô cùng lớn của người nghệ những thông tin bên trên, có thể nói Nguyễn Trãi là "quốc bảo" ngàn năm có một. Thơ văn của ông mãi mãi là tập đại thành của văn học trung đại nước nhà. Tuy cuộc đời gặp nhiều bất trắc, gian truân nhưng tài năng của ông vẫn rực sáng, soi chiếu, dẫn đường cho bao thế hệ tác giả sau tận ngày hôm nay, những tác phẩm mà Nguyễn Trãi để lại vẫn giữ nguyên được giá trị. Điều này khiến ta càng thêm khâm phục, ngưỡng mộ và trân trọng tầm nhìn vượt thời gian của người nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh - - - - - - - - - - - - - - - - - - HẾT - - - - - - - - - - - - - - - - - - - Khi làm bài văn nghị luận về một tác gia lớn như Nguyễn Trãi, em hãy chọn lọc thông tin một cách thật cô đọng để tránh lan man, dài dòng nhé. còn rất nhiều bài văn mẫu lớp 10 khác để em khám phá như Viết bài văn về một sự lựa chọn có ý nghĩa đã trải qua, Phân tích nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện đã đọc theo yêu cầu đọc mở rộng, Nghị luận về tác phẩm để lại nhiều ấn tượng và suy nghĩ nhất và vô số các bài khác. Nguyễn Trãi 1380-1442, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại nay thuộc Chí Linh, Hải Dương sau rời về làng Ngọc Ổi nay thuộc Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội. Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quí tộc. Ông ngoại và cha đều là người có lòng yêu nước thương dân. Nguyễn Trái đã được thừa hưởng tấm lòng vì dân vì nước ấy. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười, ông ngoại qua đời, Nguyễn Trãi về ở Nhị Khê nơi cha dạy học. Ông gần gũi nông thôn từ đó. Năm hai mươi tuổi, 1400, ông đỗ Thái học sinh và hai cha con cùng làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh sang cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt đem về Trung Quốc cùng với cha con Hồ Quí Li và các triều thần khác. Nguyễn Trãi và người em trai đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về, nhưng lại bị giặc Minh bắt giữ ở Đông Quan. Trốn thoát khỏi tay giặc, ông náu mình trong nhân dân, tìm đường cứu nước. Đây là thời gian ông đi sâu vào nông thôn, hiểu được đời sống nhân dân, thấm thía sức mạnh của dân, và nhờ đó, ông nhận ra chân lí muốn cứu nước phải dựa vào dân. Ông tìm theo Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Và Nguyễn Trãi đã sống, chiến đấu cùng nhân dân. Ông có đóng góp lớn vào phương kế đuổi giặc. Ông là vị quân sư xuất sắc giúp Lê Lợi chiến lược, chiến thuật trong kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Đó là "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo." Thủ tướng Phan Văn Khải thăm tượng danh nhân Nguyễn Trãi ở Que'bec, CanadaĐầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, vua hoà dân mục, thì bỗng dưng bị chặn lại ông bị nghi oan và bị bắt giam. Sau đó, ông được tha nhưng không được tin dùng nữa. Mười năm 1429-1439 Nguyễn Trãi chỉ được giao chức "nhàn quan", không có thực quyền. Ông buồn, xin về Côn Sơn nay thuộc Chí Linh, Hải Dương. Mấy tháng sau, Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc nước. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam ngày 01 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua đi duyệt võ, đã vào Côn Sơn thăm Nguyễn Trãi. Khi vua dời Côn Sơn, về đến Trại Vải Lệ Chi Viên, Bắc Ninh bị chết đột ngột. Lúc chết có Nguyễn Thị Lộ, người thiếp của Nguyễn Trãi, lúc ấy phụ trách dạy dỗ các cung nữ chức Lễ nghi học sĩ hầu bên cạnh. Bọn triều thần bấy lâu nay muốn hãm hại Nguyễn Trãi, nhân cơ hội này liền vu cho ông cùng Nguyễn Thị Lộ mưu giết vua, khiến ông phải nhận án tru di tam tộc bị giết cả ba họ Nỗi oan tầy trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải toả và ca ngợi ông bằng câu thơ nổi tiếng "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" Lòng Ức Trai toả rạng văn chương Đền thờ danh nhân Nguyễn Trãi ở xã Cộng Hoà, Chí Linh, Hải DươngNguyễn Trãi là một thiên tài nhiều mặt hiếm có. Đại cáo bình Ngô tuy viết bằng chữ Hán nhưng xứng đáng là áng "Hùng văn muôn thuở". Quốc âm thi tập là tập thơ tiếng Việt chữ Nôm sớm nhất có giá trị lớn còn lại đến ngày nay. Nguyễn Trãi đã góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi - Bậc đại anh hùng dân tộc, nhân vật toàn tài số 1 của lịch sử Việt Nam. Ở Nguyễn Trãi có 1 nhà chính trị, 1 nhà quân sự, 1 nhà ngoại giao, 1 nhà văn, 1 nhà thơ mang tầm cỡ kiệt xuất vĩ đại. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm năm sinh của ông. Hải Dương, 26 tháng 05 năm 2009 NGƯT Phạm Diễm Loan

bình luận về nguyễn trãi